Bài viết của hocthue.net hướng dẫn các bạn học về quản lý vốn chủ sở hữu tại các ngân hàng thương mại. Quản lý nhà nước về vốn chủ sở hữu tại các ngân hàng thương mại cốt yếu là đảm bảo NHTM hoạt động ổn định với nội dung như sau:
1. Khái niệm
Đối với lĩnh vực ngân hàng, quản lý vốn chủ sở hữu là xác định quy mô và cấu trúc vốn chủ sở hữu sao cho phù hợp với yêu cầu kinh doanh, đồng thời tìm kiếm các biện pháp tăng vốn chủ sở hữu một cách cỏ hiệu quả trên quan điểm lợi ích cùa cổ đông.
Ngân hàng cần có bao nhiêu vốn để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền là câu hỏi mà các cơ quan quản lý và điều tiết ngân hàng luôn phải trả lời. Để bảo vệ những người gửi tiền và xây dựng một hệ thống ngân hàng ổn định, các cơ quan quản lý ngân hàng đã thiết lập nhũng đòi hỏi về vốn để đảm bảo mức độ an toàn đối với các ngân hàng.
Yêu cầu của ngân hàng trung ương về mức đủ vốn như một chỉ dẫn quan trọng cho công chúng biết về uy tín cùa ngân hàng. Do vậy, nhà quản lý ngân hàng phải coi quản lý vốn ngân hàng như một bộ phận không thể tách rời cùa quản lý vốn chủ sở hữu.
Quản lý vốn chù sở hữu nhằm đáp ứng yêu cầu: (i) Trước hết là niềm tin người gửi tiền, vốn chủ sở hữu càng lớn, càng tạo cho người gửi tâm lý an toàn. Họ hi vọng ràng, khi bỏ ra một so tiền lớn, chủ sở hữu của ngân hàng sẽ phải cố gắng hết sức để kinh doanh an toàn, (ii) Thứ hai là yêu cầu của các nhà chức trách tiền tệ và các công ty bảo hiểm ngân hàng. Các vụ phá sản ngân hàng (đang ngày gia tăng) thường gây ra những hoảng loạn lớn trong dân chúng và các tổn thất khó lường hết được, vốn của chủ ngân hàng được sử dụng để trả nợ cho người gửi tiền, giảm bớt khỏ khăn cho ngân sách, hoặc tổn thất của người gửi tiền, (iii) Thứ ba là yêu cầu cùa các cổ đông. Thay đổi trong vốn chủ sở hữu có thể làm giảm lợi tức cổ phần, hoặc quyền lực cùa các cổ đông lớn. Do vậy, các cổ đông mong muốn tỷ lệ vốn ngân hàng phù hợp sao cho quyền lợi cùa cổ đông được đảm bảo.
2. Đảm bảo an toàn theo quy định của ngân hàng trung ưong
Ngân hàng phải đối đầu với nhiều rủi ro, như rủi ro tín dụng, lãi suất, giá chứng khoán.... Trước hết các nhà quàn trị ngân hàng không ngừng tìm kiếm các phương cách để đo rủi ro, nhằm xác định chi phí trích trước dự phỏng cho tổn thất xảy ra (trích dự phòng rủi ro). Nguyên tắc quản trị là tổn thất phải được dự tính trước và được bù đắp bàng dự phòng nhằm tránh biến động về vốn chủ sở hữu và lợi nhuận sau thuế.
Tuy nhiên, nhiều tổn thất ngân hàng không thể dự tính được, hoặc dự tính thiếu chính xác, ví dụ khi khủng hoảng xảy ra. Trong trường hợp này vốn chủ sở hữu sẽ là tấm đệm để bù đáp tổn thất, bảo vệ lợi ích của người gừi tiền.
2.1 Xác định vốn chủ sở hữu trong quan hệ với tiền gửi
Nhiều quan điểm cho rằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu / tiền gừi càng cao ngân hàng càng an toàn. Do quy mô tiền gửi phản ánh trách nhiệm chi ữả bất kỳ lúc nào của ngân hàng, nên nếu tiền gửi càng lớn, yêu cầu chi trả càng cao khi ngân hàng bị phá sản. Các cơ quan quản lý ngân hàng ở nhiều nước đã quy định tỷ lệ vổn chủ sở hữu / tiền gửi tối đa và coi đó như là một tiêu thức xác định an toàn trong thanh toán. Cách xác định này đơn giản, dễ áp dụng và kiểm soát. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu / tiền gừi thường nhỏ hơn 1 nhiều. Tuy nhiên, các vụ phá sản ngân hàng đã chứng minh rằng, quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ ít liên quan đến các thua lỗ trong kinh doanh.
Và ngay các ngân hàng có tỷ lệ này cao cũng không có khả năng thanh toán các khoản nợ của người gửi tiền khi lâm vào tình trạng phá sản. Khi cơ quan bảo hiểm tiền gừi đi vào hoạt động, người gửi tiền càng ít quan tâm tới vốn chủ sở hữu so với mức lãi suất và tính thuận tiện trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Độ an toàn của các ngân hàng được quyết định bởỉ tính an toàn của danh mục tài sản, trong đó chủ yếu là tín dụng và đầu tư vào chứng khoán.
2.2. Xác định vốn chủ sở hữu trong quan hệ với tổng tài sản rủi ro
Tổn thất do khủng hoảng thanh khoản - người gửi rút tiền hàng loạt - do các nguyên nhân vĩ mô, thường vượt quá sức chịu đựng của vốn chủ sở hữu của mỗi ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, ngân hàng phải nhờ đến sự ”cứu giúp” của ngân hàng trung ương, chính phủ, thậm chí các cơ quan tiền tệ quốc tế. Tổn thất đến với ngân hàng chủ yếu từ tài sản rủi ro: các khoản cho vay không thu hồi được, chứng khoán bị giảm giá... Các tổn thất này làm giảm quy mô tổng tài sản và trực tiếp làm giảm vốn chủ sở hữu. Do vậy, một sô cơ quan quản ỉý ngân hàng tìm kiếm mối liên hệ giữa vốn chủ sở hữu và các tài sản rủi ro.
a) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản= Vốn chú sở hữu/ Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phần trăm giảm trong tổng tài sản có thể được bù đắp bởi vốn chủ sở hữu, bởi vì toàn bộ các tài sản đều có một khả năng tổn thất nhất định và bất cứ tổn thất hay sụt giảm nào về giá trị đều dẫn đến giảm khoản mục dự phòng hay vốn chủ sở hữu.
b.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản rủi ro= Vốn chủ sờ hữu / (Tổng tài sản - Tiền - Chứng khoán chính phủ và Chứng khoán được phát hành bởi các cơ quan thuộc chính phủ)
Do ngân quỹ và trái phiếu chính phủ có rủi ro gần bằng không, tỷ lệ trên cho thấy khả năng bù đắp tổn thất bàng vốn chủ sở hữu cho các khoán cho vay và đầu tư rủi ro (cổ phiếu, trái phiếu công ty)
c. Tỷ lệ an toàn vốn - CAR (CAR - Capital adequacy ratio)
Tỷ lệ an toàn vốn = (Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2 - Các khoản giảm trừ)/ Tổng tài sản nội và ngoài bảng điều chỉnh qua hệ số rủi ro
Theo yêu cầu cùa Basel, CAR >=8% (hoặc 9% theo Basel 3)
Theo chỉ tiêu này, tài sản cùa ngân hàng được phân loại theo mức độ rủi ro thông qua các hệ số chuyển đổi tính cho từng loại tài sản rủi ro (khả năng tổn thất) dựa trên kinh nghiệm nhiều năm, có tính đến các nhân tố mới. Từ đó, ngân hàng tính được tổng tài sản đã chuyển đổi. Một tỷ lệ giữa tổng tài sản rủi ro đã chuyển đổi và vốn ngân hàng sẽ được các nhà chức trách tiền tệ tìm kiếm sao cho thoả mãn nhu cầu an toàn.
Quan niệm về tài sản chuyển đổi rủi ro được mở rộng sang tài sản ngoại bàng khi thị trường phái sinh phát triển, đồng thời không chỉ vôn chủ sờ hữu mà cà nợ - vốn câp 2 - cũng được coi là có khả năng đảm bảo an toàn. CAR đang được các nhà quàn lý ngân hàng thay đổi các bộ phận cấu thành cũng như giới hạn nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn ưong môi trường kinh doanh ngân hàng có nhiêu thay đôi. .
Bảng 1: Quy mô và cấu trúc tài sản của một ngân hàng như sau (sổ bình quân)
Phân loại tài sản nội bảng | Quy mô tài sản | Tỷ lệ chuyển đổi % | Quy mô tài sản có rủi ro |
---|---|---|---|
Tiền mặt và tiền gửi tại NHNN | 100 | 0 | 0 |
Cho vay có đảm bảo | 400 | 50 | 200 |
Cho vay không có đảm bảo | 300 | 100 | 300 |
Tổng tài sản nội bảng | 800 | 500 |
Các nhà chức trách tiền tệ xây dựng tỷ lệ chuyển đổi đối với các loại tài sản khác nhau. Quy mô tài sản rủi ro được tính bằng cách nhân quy mô tài sản (số dư) với tỷ lệ chuyển đổi (theo ví dụ là 500). Sau đó các nhà chức trách tiền tệ quy định tỷ lệ hợp lý giữa vốn ngân hàng và vốn chủ sở hữu với quy mô tài sản rủi ro (tiêu chuẩn dựa trên rủi ro : Risk - Based Capital Standards ).
- Nếu yêu cầu Vốn chủ sở hữu/Tài sản có rủi ro là 5% thì vốn chủ sở hữu cần thiết tối thiểu là 25.
- Nếu yêu cầu Vốn ngân hàng/Tài sản có rủi ro là 8% thì vốn ngân hàng (cấp 1 + cấp 2 - các khoản giảm trừ) tối thiểu là 40
Đây là chỉ tiêu xác định mức vốn cần thiết dựa trên căn cứ mức độ rủi ro của tài sản nội và ngoại bảng. Một ngân hàng cỏ thề tãng quy mô tài sàn (bằng cách tăng các khoản nợ) mà không cần tăng vốn chủ sở hữu nếu thay đổi cấu trúc danh mục đầu tư. Với quy mô đầu tư như nhau song ngân hàng nào cỏ nhiều tài sàn chuyển đồi theo hệ số rủi ro hơn sẽ cần có vốn (hoặc vốn chủ sở hữu) nhiều hơn.
Vốn chủ sở hữu được tính toán trong mối liên hệ với mức vốn cần thiết. Mặc dù được sử dụng vốn cấp 2 song quy mô không được vượt quá vồn câp 1.
Xác định Tài sản rủi ro (gồm tài sản nội và ngoại bảng) là nghiên cứu phức tạp, thực chất là xác định giá trị tổn thất của mỗi loại tài sàn sẽ phải bù đắp bằng vốn ngân hàng khỉ ngân hàng bị phả sản.
Lấy tài sản “cho vay” các doanh nghiệp làm ví dụ. Khi cho vay, nếu phát sinh rủi ro, ngân hàng tiến hành trích dự phòng, vì vậy, khi khoản cho vay không đòi được, ngân hàng sử dụng dự phòng để xử lý (bù đắp). Việc này diễn ra thường xuyên trong hoạt động của ngân hàng, vấn đề đặt ra là, khi ngân hàng phá sản, thì khoản cho vay sẽ thu được bao nhiêu?
Với nghiên cứu trên nhiều ngân hàng, trong khoảng thời gian dài, các nhà nghiên cứu nhận thấy, trung bình cứ 100 đơn vị cho vay trên bản cân đối, sẽ chỉ thu về được tối thiểu 92 đơn vị khi ngân hàng bị phá sản. Như vậy ngân hàng bị mất 8 đơn vị. Để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền khi ngân hàng phá sản, chủ ngân hàng tối thiểu phải có 8 đơn vị vốn tức là tỷ lệ an toàn đối với tài sản cho vay phải là 8/100. Các tài sản khác cũng được tính tương tự, ví dụ trái phiếu chính phủ, tỷ lệ tổn thất là 0.5%, cổ phiếu là 16%... tức là mỗi loại tài sản sẽ có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu khác nhau, phản ảnh ước tính tổn thất khác nhau và yêu cầu vốn ngân hàng khác nhau cho cùng 100 đơn vị. Để có tỷ lệ CAR chung cho cả danh mục tài sản nội và ngoại bảng, ngân hàng đã chọn CAR - 8% của danh mục “cho vay doanh nghiệp”, tức là danh mục này có tỷ lệ chuyển đổi rủi ro bàng 1, các loại tài sản khác có tỷ lệ chuyển đổi bằng cách chia tỷ lệ tổn thất của nó cho 8%.
Bảng 2: Quy mô và cấu trúc tài sản của một ngân hàng như sau (sổ bình quân)
Phân loại tài sản nội bảng | Quy mô tài sản | Tỷ lệ tổn thất | Mức tối thiểu đảm bảo an toàn | Tỷ lệ chuyển đổi | CAR |
---|---|---|---|---|---|
Tiền mặt và tiền gửi tại NHNN | 100 | 0% | 0 | 0% | 8% |
Cho vay có đảm bảo | 100 | 4% | 4 | 50% | 8% |
Cho vay không có đảm bảo | 100 | 8% | 8 | 100% | 8% |
Cổ phiếu công ty | 100 | 16% | 16 | 200% | 8% |
Như vậy, nếu ngân hàng đầu tư vào cổ phiếu công ty 100 đơn vị, ngân hàng phải có vốn 16 đơn vị, gấp đôi số vốn cần thiết đối với cho vay doanh nghiệp không có đảm bảo. Tuy nhiên, vì CAR là 8% chung cho 2 danh mục này, nên hệ số chuyển đổi của cổ phiếu là 2. Việc tính tài sản có rủi ro (tài sản chuyển đổi qua hệ số rủi ro) của cổ phiếu = 100 X 2 = 200 đon vị chỉ có ý nghĩa là cổ phiếu cần gấp đôi vốn ngân hàng so với danh mục có hệ số là 1.
Bảng 3: Vốn chủ sở hữu và vốn đảm bảo an toàn của VCB giai đoạn 2024 - 2025
Đơn vị: tỷ đồng
Khoản mục | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 06/2010 |
1 Vốn điều lệ | 4.356,7 | 4.429,3 | 12.100,86 | 12.100,86 | 12.100,86 |
2 Quỹ bổ sung vốn điều lệ | 332 | 457,4 | 71,2 | 245 | 246,16 |
3 Quỹ dự phòng tài chính | 612,38 | 904,81 | 164,97 | 517,79 | 475,58 |
4 Lợi nhuận để lại | 256,31 | 404,35 | 1.014,46 | 1.267,12 | 3.784,11 |
5 Quỹ đầu tư phát triển | 4.238 | 5.929,5 | 212,48 | 50,72 | 50,72 |
A. VÓN CHỦ SỞ HỮU (1+2+3+4+5) | 9.795,39 | 12.125,36 | 13.563,11 | 14.180,63 | |
a/ Tổng vốn cấp 1 | 9.795,39 | 12.125,36 | 13.563,11 | 14.180,63 | |
b/ Vốn cấp 2 | 1.937 | 991,88 | 1.022,52 | 1.383,05 | |
c/ Các khoản giảm trừ | 3.135,41 | 2.555 | 3.338,08 | 3394,84 | |
B. VỐN ĐẢM BẢO AN TOÀN (a + b - c) | 8.596,98 | 10.562,24 | 11.247,55 | 12.468,84 |
Nguồn: Báo cáo thường niên gìaì đoạn 2024 - 2025, hocthue.net tổng hợp
Basel (từ Basel 1 đến Basel 2 và 3) đã đưa ra nhiều phưong pháp để xác định hệ số chuyển đổi, tức là xác định giá trị tổn thất kỳ vọng cho các loại tài sản khác nhau, từ phưong pháp cơ bản tới nâng cao, cho các điều kiện khác nhau (quốc gia, khu vực, các loại hình kinh doanh, các sản phẩm). Phương pháp của Basel đã tạo nên chỉ dẫn hữu ích cho nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới về xác định CAR.
2.3 Xác định vốn chủ sở hữu trong mỗi liên hệ với các nhân tố khác
Nhiều nhà nghiên cứu ngân hàng cho rằng chỉ tìm mối liên hệ giữa vốn chủ sở hữu với tài sản rủi ro là chưa đủ, mà cần tìm mối liên hệ giữa vốn chủ sở hữu với nhiều nhân tố đặc biệt là chất lượng kinh doanh (khả năng tạo lợi nhuận) của ngân hàng. Các nhân tố bao gồm:
- Chất lượng quản lý
- Thanh khoản của tài sản
- Lợi nhuận các năm trước và tỷ lệ lợi nhuận giữ lại
- Chất lượng và đặc điểm quyền sở hữu
- Khả năng thay đổi kết cấu tiền gửi và khả năng vay mượn
- Chất lượng các nghiệp vụ
- Khả năng bù đắp các chi phí
Theo phương pháp này, mỗi ngân hàng cần có mức vốn chủ sở hữu khác nhau, thậm chí một ngân hàng tũng có thể có yêu cầu vốn chủ sờ hữu khác nhau trong từng trường hợp cụ thể. Những ngân hàng hoạt động yếu kém, ngân hàng nhỏ, hoặc trong gia đoạn khủng hoảng cần phải có mức vốn chủ sở hữu lớn hơn để bảo đảm an toàn. Rủi ro hoạt động, thanh khoản, tỷ giá, ... được nghiên cứu nhằm xác định mức tổn thất dự kiến để trích dự phòng và xác định mức tổn thất ngoài dự kiến để xác định mức vốn ngân hàng cần thiết.
Quý vị cần làm bài tập, làm tiểu luận về ngân hàng thương mại xin liên hệ hocthue.net nhé.