Một số mô hình định lượng trong phân tích đầu tư

MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ

1. Mô hình áp dụng bài toán quy hoạch tuyến tính

Ví dụ: Công ty HTNET có 5 triệu USD định đầu tư vào 4 loại hình đầu tư tài chính: Tín dụng thương mại; cổ phiếu của các công ty, các cổ phiếu bảo đảm bằng vàng và cho vay các công ty xây dựng.

Để đa dạng hóa các loại hình đầu tư, ban giám đốc HTNET ấn định số tiền tối đa đầu tư cho mỗi loại với thời hạn một năm. Bảng dưới đây cho ta biết lãi suất của mỗi loại hình đầu tư và số tiền tối đa có thể đầu tư cho mỗi loại.

Bảng 1. Lãi suất và điều kiện về đầu tư

Các loại hình đầu tưLãi suất, % (1 năm)Giới hạn tối đa, triệu USD
l.Tín dụng thương mai71,5
2.Cổ phiếu công ty112,5
3.Cổ phiếu bảo đảm bằng vàng191.5
4.Cho vay các công ty xây dựng151,8

 

Ban giám đốc của HTNET ấn định thêm là không quá 55% số vốn đầu tư sẽ đầu tư cho hai loại hình 3 và 4 và cũng ít nhất 15% số vốn đầu tư sẽ đầu tư cho loại hình 1.

Hãy tìm phương án đầu tư có lợi nhất cho HTNET, tức là tìm phương án đầu tư đem lại lợi nhuận cao nhất cho HTNET mà vẫn bảo đảm các ấn định nhằm đa dạng hóa các loại hình đầu tư.

Từ các vấn đề được đặt ra trên đây ta đi đến bài toán quy hoạch tuyến tính sau đây:

Gọi xj là số vốn đầu tư cho loại hình đầu tư j

Khi đó hàm mục tiêu sẽ là tổng lợi nhuận lớn nhất:

F = 0,07 x1 + 0,11 x2 + 0, 19 x3 + 0,15 x4 -> max

Các ấn định của ban giám đốc nhằm đa dạng hóa các loại hình đầu tư thể hiện bởi hệ ràng buộc gồm các bất phương trình:

 x1      < 1

x2      <        2,50

x3      <        1,5

x4      <        1,8

x3      + x4   <        0,55 x 5

x1      >        0,15    x        5

x1 + x2 + x3 + x4    <        5

xj > 0, J = 1,2,3,4

Giải bài toán bằng phương pháp đơn hình, ta nhận được phương án đầu tư tối ưu là: x1 = 0,75 triệu USD; x2 = 0, 95 triệu USD; x3 = 1,5 triệu USD và x4 = 1,8 triệu USD. Với tổng lợi nhuận lớn nhất là: 0, 712 triệu USD/năm.

2. Mô hình ma trận của BCG (Boston Consulting Group)

Nhóm tư vấn ở Boston là một trong những công ty tư vấn về quản trị hàng đầu ở Mỹ đã đề xuất một phương pháp phân tích định lượng nhằm giúp cho ban giám đốc của các công ty lớn đánh giá tình hình hoạt động của các đơn vị kinh doanh chiến lược của mình (SBU - Strategic Businiss Units) để sau đó ra quyết định về vốn đầu tư cho các SBU thích hợp và cũng đồng thời đánh giá được tình hình tài chính của toàn công ty.

Thông thường thì mỗi SBU hoạt động kinh doanh ở một tuyến sản phẩm nào đó, ví dụ công ty Học thuê.net có một SBU hoạt động kinh doanh dịch vụ luận văn cao học, một SBU khác kinh doanh dịch vụ tiểu luận,... và các dịch vụ khác

Có 2 yếu tố quan trọng để đánh giá tình trạng hiện tại của một SBU, đó là suất tăng trưởng hàng năm của thị trường tuyến sản phẩm của SBU này (MGR - Market Growth Rate) và phần phân chia thị trường tương đối của SBU so với các đối thủ cạnh tranh của nó.

Ma trận BCG là một bảng hình vuông có 4 ô vuông, trục hoành chỉ phần phân chia thị trường tương đối, ví dụ nếu SBU có phần phân chia thị trường tương đối là 0,8 tức là phần phân chia thị trường của SBU này bằng 0,8 phần phân chi thị trường của đối thủ cạnh tranh đang dẫn đầu toàn thị trường. Còn nếu SBU có RMS (Relative Market Share) là 1,5 thì SBU này là người dẫn đầu thị trường và phần phân chia thị trường của nó bằng 1,5 phần phân chia thị trường của đối thủ cạnh tranh thứ nhì.

Còn trục tung chỉ suất tăng trưởng hàng năm của thị trường tuyến sản phẩm MGR mà SBU này kinh doanh (tính bằng phần trăm). Một tuyến sản phẩm có suất tăng trưởng thị trường hàng năm trên 10% được xem là có MGR cao.

Suất tăng Trưởng (MGR)

Phần phân chia thị trường tương đối (RMS)

 

Hình 1

Hình 1 cho ta một ví dụ về công ty có 8 MBU. Mỗi SBU được biểu diễn bằng một vòng tròn, vòng tròn lớn hay nhỏ tùy thuộc vào tổng doanh số bán ra của SBU này nhiều hay ít của hai tọa độ của vòng tròn chỉ RMS và MGR của SBU này.

Chú ý là đánh số RMS trên trục hoành theo thứ tự giảm dần từ trái qua phải. Khi đó, ba đơn vị kinh doanh 1, 2, 3 nằm ở ô trên bên phải gọi là ô chấm hỏi (QM - Question Mark). Những đơn vị kinh doanh này thường là mới được thành lập, kinh doanh ở những tuyến sản phẩm có suất tăng trưởng của thị trường cao, nhưng vì mới thành lập nên các SBU có phần phân chia thị trường tương đối thấp và có tổng doanh số bán ra nhỏ.

Để các SBU ở ô QM có thể cạnh tranh thắng lợi nhằm tăng phần phân chia thị trường tương đối của chúng lên thì ban giám đốc công ty cần đầu tư cho các SBU này một số vốn đáng kể. Chính vì thế ban giám đốc công ty cần cân nhắc kỹ xem nên đầu tư vào SBU nào nằm trong ô QM này. Như ở ví dụ, có 3 SBU nằm ở ô QM là hơi nhiều quá vì nếu muốn chúng cạnh tranh thắng lợi cả thì công ty phải đầu tư vào chúng một số vốn đầu tư vượt quá sức của công ty.

Khi một SBU ở ô QM cạnh tranh thắng lợi sẽ chuyển sang ô trên bên trái gọi là ô các ngôi sao (Stars). Các SBU này dẫn đầu thị trường về RMS ở tuyến sản phẩm có MGR cao. Nhưng chính MGR cao nên thị trường này có sức quyến rũ lớn và do đó sẽ có cạnh tranh gay gắt về phần phân chia thị trường. Trong ví dụ, công ty có hai SBU 4 và 5 ở ô Stars. Để các SBU này có thể giữ vững vị trí dẫn đầu thị trường, công ty vẫn cần phải đầu tư thích đáng cho chúng. Theo thời gian nếu các SBU ở ô Stars vẫn giữ nguyên được vị trí của mình về RMS thì suất tăng trưởng thị trường của tuyến sản phẩm sẽ giảm dần và đi vào ổn định, lúc này các SBU ở ô Stars sẽ chuyển xuống ô dưới bên trái gọi là ô con bò đẻ ra tiền- ô CC (Cash Cow). Các SBU ở ô này thường có lợi nhuận lớn và ổn định và không đòi hỏi công ty đầu tư nhiều cho chúng. Các SBU này là nguồn cung cấp tài chính cho công ty. Tuy vậy, nếu các SBU ở ô CC này không giữ được vị trí dẫn đầu của mình về RMS thì có thể bị chuyển sang ô dưới bên phải gọi là ô các con chó (ô Dogs). Trong ví dụ, thì SBU 6 là con bò đẻ ra tiền lớn và duy nhất của công ty còn SBU 5 theo thời gian sẽ có khả năng trở thành con bò đẻ ra tiền cho công ty.

Cuối cùng, các SBU ở ô Dogs rất ít có khả năng sinh ra lợi nhuận và thường gây nhiều điều rắc rối cho công ty. Theo chu kỳ sống của một sản phẩm có khả năng nhu cầu của thị trường về loại sản phẩm này lại tăng lên nhưng phải là sản phẩm với chất lượng và mẫu mã mới, khi đó các SBU ở ô Dogs sẽ chuyển sang ô QM nhưng khi đó chúng sẽ đòi hỏi vốn đầu tư lớn từ công ty. Cũng có thể với sự đầu tư lớn của công ty thì các SBU ở ô Dogs sẽ trở thành những con bò đẻ ra tiền, nhưng đây là việc hết sức khó khăn.

Nói tóm lại, ban giám đốc công ty cần xem xét đầu tư lớn để xây dựng lại các SBU ở ô Dogs hoặc giải thể tức là loại bỏ các SBU này đi.

Trong ví dụ, công ty có 3 SBU ở ô QM và 2 SBU ở ô Dogs là những gánh nặng về tài chính cho công ty, ban giám đốc cần xem xét lựa chọn 1 hoặc 2 SBU trong số này để dồn sức đầu tư xây dựng chúng còn những cái khác nên loại bỏ đi. Ngoài ra, ban giám đốc công ty phải đầu tư thích đáng cho các SBU 4 và 5 để chúng giữ vững vị trí của mình trên một số thị trường với sự cạnh tranh gay gắt và chúng sẽ trở thành những con bò đẻ ra tiền trong tương lai cho công ty.

Ví dụ: Một công ty có 5 đơn vị kinh doanh chiến lược (SBU) ký hiệu là A, B, C, D, E với các số liệu được chỉ ra ở bảng dưới đây:

Bảng 2- Số liệu về hoạt động của các đơn vị kinh doanh trong công ty

SBUTổng doanh số (triệu USD)Số đối thủ cạnh tranhTổng doanh số của 3 đối thủ dẫn đầu (triệu USD)Suất tăng trưởng hàng năm của thị trường, %
A0,587;       0,7;          0,515
B1,6221,6;    1,6;    18
C1,8141,8;    1,2;    117
D3,253,2;    0,8;          0,74
E0,5102,5;    1,8;          1,74

 

Hãy thành lập ma trận BCG và phân tích tình hình tài chính của công ty, đồng thời đề ra chiến lược đầu tư trong tương lai của công ty.

3. Mô hình phân tích chiến lược đầu tư tài chính của General Electric (GE - Model)

Mô hình này là mở rộng của ma trận BCG cho phép đánh gía, phân tích một cách tỉ mỉ, chi tiết và toàn diện hơn thực trạng của các SBU của công ty.

Ví dụ: Trong hình 2 cho mô hình GE của một công ty với 7 đơn vị kinh doanh chiến lược ký hiệu là A, B, C, D, E, F, G thể hiện bằng 7 hình tròn. Kích thước hình tròn chỉ kích thước của toàn thị trường mà SBU này tham gia vào, còn phần được tô đậm của mỗi hình tròn chỉ phần phân chia thị trường của SBU này so với toàn thị trường.

Hai yếu tố để xác định vị trí (thực trạng) của một SBU là:

  1. .Vị trí cạnh tranh của SBU tính bằng điểm số cao nhất là 5 điểm, thấp nhất là 1 điểm biểu diễn trên trục hoành giảm dần từ trái sang phải (Ký hiệu vị trí cạnh tranh là: CP - Competitive Position).
  2. .Tính hấp dẫn của thị trường (Ký hiệu là: MA - Market ttractiveneess) cũng tính bằng điểm từ 1 đến 5 và biểu diễn trên trục tung.

Vị trí cạnh tranh của SBU trên thị trường được xác định bởi các yếu tố như: phần phân chia thị trường, sự tăng lên của phần phân chia thị trường, chất lượng sản phẩm, danh tiếng của nhãn hiệu,...

Còn tính hấp dẫn của thị trường (MA) được xác định bởi các yếu tố như kích thước của toàn thị trường, suất tăng trưởng hàng năm của thị trường, lợi nhuận trong quá khứ, cường độ cạnh tranh, đòi hỏi về kỹ thuật,...

Mỗi yếu tố đều được cho điểm từ 1 đến 5 và mỗi yếu tố tùy theo tầm quan trọng của nó được gắn với một số dương nhỏ hơn 1 gọi là trọng số của yếu tố. Tổng các trọng số của các yếu tố khác nhau bằng 1. Từ đó tính ra điểm trung bình về CP của SBU và điểm trung bình về MA của SBU. Khi đã có hai điểm này thì vị trí tâm hình tròn biểu diễn thực trạng của SBU này hoàn toàn được xác định.

Ví dụ; Hãy tính điểm cho đơn vị kinh doanh chiến lược B ở bảng 2 bằng các bảng sau đây:

Bảng 3- Tính CP (vị trí cạnh tranh) của SBU

Các yếu tố xác định CPTrọng sốƯớc tính điểm (1-5)Giá trị
Phần phân chia của thị trường0,1040,40
Sự tăng lên của phần phân chia0,1520,30
Chất lượng của sản phẩm0,1040,40
Danh tiếng của nhãn hiệu0,1050,50
Mạng lưới phân phối0,0540,20
Hiệu quả của vận động bán hàng0,0530,15
Sức sản xuất0,0530,15
Hiệu quả của sản xuất0,0520,10
Chi phí cho một đơn vị sản xuất0,1530,45
Cung cấp nguyên l;iệu0,0550,25
Nghiên cứu phát minh0,1030,30
Nhân sự của quản trị0,0540,20
Cộng1-3,40

 

Vậy đơn vị kinh doanh B có điểm trung bình về vị trí cạnh tranh là 3,40

Bảng 4- Tính MA (Tính hấp dẫn của thị trường)

Các yếu tố xác định MATrọng sốƯớc tính điểm (1-5)Giá trị
Kích thước của toàn thể0,2040,80
Suất tăng trưởng hàng năm của thị trường0,2051,00
Lợi nhuận trong quá khứ0,1540,60
Cường độ của sự cạnh tranh0,1520,30
Các đòi hỏi kỹ thuật0,1540,60
Nhược điểm về lạm phát0,0530,15
Các đòi hỏi về năng lượng0,0520,10
Tác động của môi trường xung quanh0,0530,15
Cộng1-3,70

 

Vậy diểm trung bình về MA của đơn vị kinh doanh B là 3,70

Như vậy tâm của hình tròn biểu diễn SBU này có hoành độ là 3,40 và tung độ là 3,70 (Hỉnh 2).

Phân tích kỹ thêm một chút về đơn vị kinh doanh chiến lược B. Đơn vị này hoạt động ở một thị trường có kích thước khá lớn, phần phân chia thị trường của nó chiếm 15% thị trường này. Tính hấp dẫn của thị trường này là khá cao (3,70 điểm) và vị trí cạnh tranh của SBU cũng tương đối tốt (3,40 điểm).

Người ta chia hình vuông thành 9 ô vuông như ở hình 2: Vị trí cạnh tranh chia thành ba loại; loại yếu có điểm từ 1 đến 2,33, loại trung bình có số điểm từ 2,33 đến 3,67 và loại mạnh có số điểm từ 3,67 đến 5. Tương tự như vậy tính hấp dẫn của thị trường cũng chia thành 3 loại: thấp, trung bình, cao. Từ đó có ô (mạnh, cao), ô (mạnh, trung bình), ...Ví dụ đơn vị kinh doanh B đang xét nằm ở ô (trung bình, cao) là SBU mà ban giám đốc công ty nên đầu tư mạnh để xây dựng nó nhằm chiếm vị trí cạnh tranh mạnh hơn, còn đơn vị kinh doanh G ở vị trí ô (yếu, thấp) thì nên loại bỏ.

Hình 2 Tính hấp dẫn của thị trường (MA) vàVị trí cạnh tranh (CP)

Ngoài ra, ban giám đốc cần nhìn các SBU theo quan điểm động tức là phải dự báo được chiều hướng phát triển của chúng trong những năm tới. Đã làm được điều đó sau khi nghiên cứu toàn diện các thông tin người ta đặt thêm một vectơ có hướng vào mỗi vòng tròn, độ dài của vectơ chỉ chiều hướng phát triển này là mạnh hay yếu. Ví dụ, đơn vị kinh doanh B hoạt động ở một thị trường có tính hấp dẫn có chiều hướng đi xuống một ít.

Quý vị cần hỗ trợ nghiên cứu đến định lượng đầu tư xin liên hệ hocthue.net

Thẻ