Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật

Hai nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật

Trong bài viết này cùng với tiểu luận triết học của hocthue.net sẽ là bài nghiên cứu sau đây

A1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

Khái niệm liên hệ:

Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác với nhau, qua đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là những đối tượng thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối lượng, các thuộc tính của nó thay đổi, và có thể còn làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng khác. Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có liên hệ với các đối tượng khác. Nhưng thế nào là mối liên hệ?
“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Cũng có thể dùng khái niệm “quan hệ”, nhưng khái niệm “quan hệ” rộng hơn “liên hệ”. Liên hệ chỉ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Chẳng hạn, vận động của vật thể có liên hệ hữu cơ với khối lượng của nó, bởi sự thay đổi vận tốc vận động tất yếu làm khối lượng của nó thay đổi; các sinh vật đều có liên hệ với môi trường bên ngoài: những thay đổi của môi trường tất yếu làm cơ thể có sự thay đổi tương ứng; công cụ lao động liên hệ với đối tượng lao động: những thay đổi của công cụ luôn gây ra những thay đổi xác định trong đối tượng lao động mà các công cụ đó tác động lên, đến lượt mình sự biến đổi của đối tượng lao động tất gây ra những biến đổi ở các công cụ lao động…
Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này không ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi. Chẳng hạn, sự biến đổi các nguyên tắc đạo đức không hề làm hạt nhân nguyên tử thay đổi, và ngược lại, những thay đổi trong hạt nhân, cũng khó làm các nguyên tắc đạo đức thay đổi.
Các ví dụ về liên hệ và cô lập hoàn toàn không có nghĩa là, một số đối tượng luôn liên hệ, còn những đối tượng khác lại chỉ cô lập. Trong các trường hợp liên hệ xét ở trên vẫn có sự cô lập, cũng như ở các trường hợp cô lập vẫn có mối liên hệ qua lại. Trên thế giới mọi đối tượng đều trong trạng thái liên hệ và cô lập với nhau. Chúng liên hệ với nhau ở một số khía cạnh, và không liên hệ với nhau ở những khía cạnh khác, trong chúng có cả những biến đổi khiến các đối tượng khác thay đổi, lẫn những biến đổi không làm các đối tượng khác thay đổi. Như vậy, liên hệ và cô lập thống nhất với nhau mà ví dụ điển hình là quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường. Cơ thể sống gắn bó với môi trường nhưng đồng thời cũng tách biệt với nó, có tính độc lập tương đối. Một số thay đổi của môi trường nhất định làm cơ thể sống thay đổi, những thay đổi khác lại không làm nó thay đổi. Chỉ những biến đổi môi trường gắn với hoạt động sống của cơ thể mới ảnh hưởng đến nó; còn những thay đổi không đụng chạm gì đến hoạt động đó thì không gây ra sự biến đổi nào trong nó. Như vậy, liên hệ và cô lập luôn tồn tại cùng nhau, là những mặt tất yếu của mọi quan hệ cụ thể giữa các đối tượng.
Các nhà siêu hình thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, các nhà duy tâm rút các mối liên hệ đó ra từ ý thức, tinh thần (Hegel - Hêghen) cho rằng ý niệm tuyệt đối là nền tảng của các mối liên hệ, còn Berkeley (Bơ-kơ-li) trên lập trường duy tâm chủ quan lại cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các đối tượng). Từ chỗ cho rằng mọi tồn tại trong thế giới đều là những mắt khâu của một thực thể vật chất duy nhất, là những trạng thái và hình thức tồn tại khác nhau của nó, phép biện chứng duy vật thừa nhận, có mối liên hệ phổ biến giữa các đối tượng. Thế giới không phải là thể hỗn loạn các đối tượng, mà là hệ thống các liên hệ đối tượng. Như vậy, chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mọi liên hệ. Nhờ sự thống nhất đó các đối tượng không thể tồn tại cô lập, mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Tính khách quan của mối liên hệ
Mối liên hệ luôn vốn có ở bản thân đối tượng chứ không hề mang tính chủ quan. Trong thế giới không có đối tượng nào tồn tại cô lập, mỗi đối tượng đều tồn tại cùng các mối liên hệ, bản tính đó là khách quan ở mọi đối tượng. Các đối tượng chỉ thể hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, tác động lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của chúng cũng chỉ bộc lộ thông qua liên hệ với các đối tượng khác. Để hiểu tính khách quan của đối tượng thì con người phải xuất phát từ các mối liên hệ vốn có của chính nó. Đây là yêu cầu quan trọng nhằm phân biệt phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm và thuật ngụy biện.
Tính phổ biến của mối liên hệ
Bất cứ đối tượng nào cũng liên hệ với các đối tượng khác. Mối liên hệ cũng có ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức đặc biệt tùy thuộc những điều kiện nhất định. Nhưng mọi hình thức cũng đều chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến, chung nhất. 
Ngoài ra, tính phổ biến còn gồm: Một là, các yếu tố, các bộ phận khác nhau bên trong mọi đối tượng cũng đều luôn liên hệ tác động qua lại, tức là, chúng phải có kết cấu nội tại. Hai là, thế giới trong tính toàn bộ của nó là một chỉnh thể thống nhất của các mối liên hệ tương tác lẫn nhau. Thực tiễn tạo nên các hình thức tồn tại xã hội và hoạt động sống của con người, mà thực chất là những mối liên hệ riêng có của loài người, tức là phương thức và con đường cơ bản thực hiện các mối liên hệ thực giữa xã hội và giới tự nhiên, giữa con người với nhau trong xã hội. Lênin nhấn mạnh “Những quan hệ của mỗi sự vật (hiện tượng…) không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn diện. Mỗi sự vật (hiện tượng, quá trình…) đều liên hệ với mỗi sự vật khác”. Toàn bộ sự phát triển khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của loài người đã chứng minh điều này. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất các mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau; đối tượng nào cũng đều là sự liên kết trong mạng lưới các mối liên hệ thống nhất và thể hiện tính phổ biến của nó thông qua mạng lưới đó.
Tính đa dạng của các mối liên hệ
Vì có nhiều đối tượng cùng tồn tại, vận động và phát triển thông qua liên hệ tương tác với nhau, do vậy các mối liên hệ cũng rất đa dạng, mỗi đối tượng có nhiều mối liên hệ, chúng được phân loại thành: liên hệ bên trong – liên hệ bên ngoài; liên hệ chủ yếu – liên hệ thứ yếu; liên hệ bản chất – liên hệ không bản chất; liên hệ tất nhiên – liên hệ ngẫu nhiên; liên hệ trực tiếp – liên hệ gián tiếp…các cặp mối liên hệ có quan hệ biện chứng với nhau, sự phân chia từng cặp đó chỉ tương đối, vì nó chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát của nó, hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các đối tượng.
Nếu mỗi đối tượng đều liên hệ hữu cơ với các đối tượng khác và sự liên hệ đó là hình thức tồn tại, là điều kiện cần thiết, để bộc lộ các thuộc tính của đối tượng, thì để nhận thức nó và các thuộc tính đặc trưng của nó, tất yếu phải khảo sát nó trong mối liên hệ hữu cơ với các đối tượng khác, cần phải tính đến “tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Chỉ có như thế mới đảm bảo kết quả nhận thức chân thực về đối tượng. “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Chẳng hạn, để nhận thức bản chất con người, cần phải khảo sát nó trong các quan hệ sản xuất, phân phối của cái vật chất, trong các quan hệ chính trị, tư tưởng, gia đình và các quan hệ khác. Để hiểu bản chất của tư bản, cần nghiên cứu các quan hệ tiền hàng, sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa và tương quan của nó với người chủ tư liệu sản xuất.
Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đạt hiệu quả hoạt động cao nhất. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của các đối tượng đòi hỏi con người phải biết phân tích mối liên hệ cụ thể của đối tượng, xây dựng quan niệm về tính chỉnh thể, tính mở trong phân tích các mối liên hệ của các đối tượng, khảo sát các liên hệ phổ biến của đối tượng từ động thái của nó. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay đòi hỏi mọi người phải nhận thức chính xác và xử lí đúng đắn các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với nhau, nhằm thúc đẩy sự phát triển nhịp nhàng bền vững toàn diện đời sống kinh tế - xã hội. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa thế giới đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, các quốc gia, dân tộc ngày càng có xu thế tồn tại trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, điều đó lại càng đòi hỏi chúng ta phải biết nắm bắt các mối liên hệ tương hỗ nhiều mặt trong tiến trình phát triển của thế giới, thực hiện chính sách hội nhập, nắm bắt thời cơ và phát huy nội lực để phát triển đất nước.

A2. Nguyên lí về sự phát triển

“Phát triển” là quá trình vận động từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. 
Phát triển là vận động nhưng chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không thể có phát triển. Do vậy, ở phương Tây trước Kant chưa có quan niệm về phát triển, vì trước đó người ta mới chỉ suy tư về không gian mà chưa suy tư gì về thời gian. Còn ở phương Đông với văn hóa coi trọng truyền thống, mà Nho giáo là điển hình, thì quan niệm phát triển không hẳn hướng về tương lai mà thường hướng về quá khứ. Một xã hội lí tưởng không phải là xã hội sẽ có mà là đã có. Như vậy, nếu người phương Tây xem vật chất vận động trong thời gian tuần hoàn. Xét từ cách tiếp cận phương Tây thì phương Đông không có khái niệm “phát triển”, mà chỉ có khái niệm “tăng trưởng”. Bởi lẽ, tăng trưởng là sự mở rộng ngưỡng về số lượng, quy mô theo hướng tích cực, nhưng không đi kèm biến đổi về chất, về cấu trúc.
Như đã biết, vận động tuyệt đối và đứng yên tương đối là những thuộc tính cố hữu của các đối tượng vật chất. Vốn là sự thống nhất của bền vững và biến đổi, đối tượng không tồn tại vĩnh hằng. Những biến đổi diễn ra trong nó ở phạm vi một độ bền vững xác định có xu hướng phá vỡ sự bền vững đó và biến nó thành đối tượng khác, rồi đến lượt mình, do những biến đổi diễn ra ở mức độ tích lũy cao hơn, nó lại biến thành đối tượng thứ ba, và cứ thế mãi khiến cho vật chất, trong khi vận động, biến đổi thường xuyên, lại chuyển hóa không ngừng từ trạng thái bền này sang trạng thái bền khác. Nhưng xu hướng của những biến đổi đó là gì, cái gì nảy sinh thay thế các đối tượng đã bị hủy hoại?
Một số nhà triết học cho là, vận động diễn ra theo vòng tròn, đời đời lặp lại vẫn những chu kì như cũ; một số khác lại khẳng định rằng, trong tiến trình những biến đổi thường xuyên lại diễn ra sự vận động từ cao xuống thấp, tức là thoái bộ; số thứ ba, ngược lại, giải thích toàn bộ những thay đổi diễn ra trong thế giới bằng sự vận động từ thấp đến cao. Thực tế thì có cả vận động từ thấp đến cao và từ cao xuống thấp, và vận động từ thấp tới cao, đi lên, là xu hướng hàng đầu trong số chúng; chính nó là thuộc tính căn bản cố hữu nội tại của vật chất. Tóm lại, sự vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp, được gọi là phát triển. Ăngghen cho rằng phát triển là “mối liên hệ nhân quả của sự vận động tiến lên từ thấp đến cao thông qua tất cả những sự vận động chữ chi và những bước thụt lùi tạm thời…”
Tính khách quan của sự phát triển
Trước khi phép biện chứng duy vật ra đời, Hegel (Hêghen) đã không chỉ nêu ra khái niệm phát triển mà còn xây dựng phép biện chứng khá hoàn chỉnh bao gồm các nguyên lí, phạm trù, quy luật về sự phát triển. Sau này, chính Mác, Ăngghen và Lênin đều coi phép biện chứng của Hegel (Hêghen) là học thuyết toàn diện, sâu sắc, phong phú nhất về sự phát triển. Nhưng, vì Hegel (Hêghen) đã xây dựng phép biện chứng trên cơ sở duy tâm nên Mác, Ăngghen đã đặt ra nhiệm vụ đưa phép biện chứng thoát khỏi cái vỏ thần bí duy tâm, biến nó thành phép biện chứng duy vật, xây dựng khoa học chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, của xã hội và của tư duy con người. Phát triển là công việc ở “dưới đất” chứ không phải là của “ý niệm tuyệt đối”, càng không phải là công việc của Thượng đế.
Những tài liệu khoa học xưa nay đều chứng tỏ đầy thuyết phục về xu hướng vận động phức tạp khách quan (được gọi là phát triển) đó trong hiện thực. Chẳng hạn, ánh sáng phát ra từ các thiên thể biến thành các hạt chất, mà khi tích lũy ở số lượng lớn, đã tạo thành nguyên tử, sau đó thành phân tử của các chất xác định. Do tương tác mà các hạt vật chất này nóng lên, đậm đặc lại và ở thời điểm xác định đã tạo ra các hành tinh. Trong số đó, có những hạt do nảy sinh các điều kiện thuận lợi phù hợp (ví dụ trên Trái đất), mà các hợp chất hữu cơ phức tạp dần được tạo thành, và trong tiến trình tiếp theo (với những điều kiện đặc biệt) có khả năng biến chuyển thành các cơ thể sống. Sau khi xuất hiện, các sinh thể tiếp tục vận động và tương tác với môi trường rồi dần trở nên hoàn thiện, biến chuyển từ những “thể” chất sống giản đơn dưới mức tế bào, đến các cơ thể đơn bào, rồi từ thể đơn bào đơn giản nhất đến các thể đa bào, từ các sinh thể chỉ có thuộc tính phản xạ đến những sinh thể có thần kinh – tâm lí.
Sự vận động từ thấp đến cao còn biểu hiện rõ trong lịch sử xã hội. Nhân loại đã bắt đầu tồn tại từ hình thái đơn giản như xã hội nguyên thủy, sau đó chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và cuối cùng là xã hội chủ nghĩa, mỗi lần đều chuyển sang kiểu đời sống xã hội mới cao hơn, hoàn thiện hơn. Trong xã hội con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của phát triển chủ yếu bằng thực tiễn sản xuất. Cho nên kinh tế luôn là cơ sở của phát triển xã hội. Học thuyết duy vật biện chứng về phát triển xã hội có nội dung chủ yếu là sự chuyển hóa từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên cao hơn, tiến bộ hơn; từ nền văn minh trình độ thấp lên nền văn minh trình độ cao hơn.
Điều nói trên cũng đồng thời khẳng định phát triển là xu hướng phổ biến trong thế giới, cố hữu của vật chất. Song điều đó không có nghĩa là từng hình thức tồn tại cụ thể của vật chất, mỗi đối tượng riêng rẽ đều luôn phát triển. Bên cạnh những đối tượng phát triển, biến đổi từ thấp đến cao, thì vẫn có những đối tượng vận động vòng tròn, chuyển từ một trạng thái này sang trạng thái khác trong phạm vi của một giai đoạn phát triển, hoặc lại biến đổi từ cao xuống thấp. Vai trò hàng đầu của phát triển, tính phổ biến của nó biểu hiện không phải ở chỗ, tất cả các đối tượng nhất định phải phát triển, mà ở chỗ, chúng có khả năng phức tạp hóa, chuyển từ thấp lên cao khi có điều kiện tương ứng. Nơi nào đã có những điều kiện như thế nhất định sẽ có vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp; nơi nào còn thiếu những điều kiện đó thì sẽ chỉ có hoặc là sự vận động theo vòng tròn (sự thay đổi ở cùng cấp độ), hoặc là những biến đổi thụt lùi. Vả lại, những đối tượng đang vận động theo vòng tròn hay thụt lùi, cũng không mất khả năng chuyển từ thấp đến cao ngay khi điều kiện thuận lợi cho điều đó.
Phát triển là quá trình đa dạngxzr
Chỉ có thông qua một quá trình nhất định thì tất cả các đối tượng mới có thể thực hiện được sự phát triển. Mọi đối tượng tự nhiên, xã hội và tư duy đều trải qua quá trình phát triển, mà nếu xét từ hình thức thì đó là quá trình thay thế liên tục của đối tượng theo thời gian và tính chất không ngừng mở rộng về không gian; còn xét từ nội dung thì đó là sự đổi mới hình thức vận động, hình thái, kết cấu, chức năng và mối quan hệ của đối tượng. Sự phát triển của xã hội loài người thể hiện rõ nhất tính quá trình đó. Từ xã hội nguyên thủy đến xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến, và xã hội tư sản rồi tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều đó biểu hiện xu thế phát triển chung của xã hội loài người. Như Việt Nam đang ở vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình xây dựng lâu dài để hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Đây là một xu thế lịch sử không thể thay đổi bằng ý chí.
Cần phân biệt hai khái niệm gắn với phát triển là tiến hóa và tiến bộ. Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ, và thường là sự biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp. Thuyết tiến hóa tập trung giải thích khả năng sống sót và thích ứng của cơ thể xã hội trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Trong khi đó, khái niệm tiến bộ đề cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu. Trong tiến bộ, khái niệm phát triển đã được lượng hóa thành tiêu chí cụ thể đánh giá mức độ trưởng thành của các dân tộc, các lĩnh vực của đời sống con người…
Từ quan niệm, phát triển là sự vận động theo chiều hướng đi lên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã vạch rõ, thực chất của phát triển là sự phát sinh đối tượng mới phù hợp với quy luật tiến hóa và sự diệt vong của đối tượng cũ đã trở nên lỗi thời. Đối tượng mới chỉ là cái phù hợp với khuynh hướng tiến bộ của lịch sử, có tiền đồ rộng lớn; đối tượng cũ là cái đã mất vai trò tất yếu lịch sử, ngày càng đi vào xu hướng diệt vong. Không gì có thể chiến thắng được đối tượng mới, bởi vì:
Một là, xét từ mối quan hệ giữa đối tượng mới và hoàn cảnh thì, nó sở dĩ là mới vì kết cấu và chức năng của nó thích ứng với điều kiện mới đã biến đổi; đối tượng cũ lại chỉ gồm các loại yếu tố và chức năng không còn phù hợp với hoàn cảnh đã biến đổi, xu thế diệt vong của nó là không thể cứu vãn được. Hai là, xét mối quan hệ giữa đối tượng cũ và đối tượng mới thì đối tượng mới là cái đã manh nha nảy mầm từ trong lòng đối tượng cũ, nó là cái phủ định những tiêu cực mục nát trong đối tượng cũ đồng thời lại bảo lưu được những cái hợp lí, thích hợp với điều kiện mới và bổ sung nội dung mới vốn chưa có ở đối tượng cũ. Hai phương diện đó là nguyên nhân có sức mạnh to lớn làm cho đối tượng mới về bản chất có thể vượt qua đối tượng cũ. Trong lĩnh vực lịch sử xã hội, đối tượng mới là kết quả của hoạt động sáng tạo theo hướng tiên tiến của xã hội; về cơ bản nó phù hợp với lợi ích và nhu cầu của đông đảo nhân dân, có khả năng bảo vệ được họ, do vậy nó tất yếu chiến thắng đối tượng cũ. Đặc biệt là trong thời kì diễn ra những biến động xã hội lớn, sự chiến thắng của đối tượng mới trước đối tượng cũ biểu hiện rất rõ. Nắm vững quy luật này là điều có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự sáng tạo và phát triển của nước ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.


2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật


2.1. Quan niệm biện chứng duy vật về phạm trù và sự hình thành phạm trù

Trong quá trình nhận thức con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm bắt những thuộc tính, những mối liên hệ chung của chúng. Kết quả của quá trình nhận thức đó được phản ánh qua việc hình thành và phát triển hệ thống các khái niệm, phạm trù. Đó là vận động, không gian, thời gian, nhân quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu thuẫn…Chúng là những đặc trưng của các đối tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm trù triết học.
Các phạm trù triết học là những hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là những mô hình tư tưởng phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng hiện thực. Chúng giúp con người suy ngẫm về những chất liệu cụ thể đã thu nhận được trong quá trình nhận thức và cải biến hiện thực, chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của khách thể. Chẳng hạn, khi khảo sát đối tượng bằng cặp phạm trù cái chung – cái riêng, con người làm rõ sự đồng nhất và khác biệt của nó với các khách thể khác; suy ngẫm về đối tượng thông qua các phạm trù “nhân quả” và “tất yếu”, người ta nắm bắt được chuỗi quy định nhân quả, những thuộc tính và liên hệ tất nhiên, ngẫu nhiên; phân tích đối tượng đó thông qua các phạm trù chất, lượng người ta rõ được các đặc trưng tương ứng của nó và có thể cả mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng…
Tất cả các đối tượng đều nằm trong sự phụ thuộc và liên hệ phổ biến lẫn nhau. Do vậy, những khái niệm của con người phản ánh chúng, cũng liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau, linh động, và khi có điều kiện phù hợp đều chuyển hóa vào nhau, thành mặt đối lập của mình. Chỉ có như thế chúng mới phản ánh được tính vận động của đối tượng. Lênin viết: “…những khái niệm của con người không bất động, mà luôn luôn vận động, chuyển hóa từ cái nọ sang cái kia; không như vậy chúng không phản ánh đời sống sinh động”.
Các phạm trù đều phản ánh các hình thức tồn tại phổ biến, các mặt và các mối liên hệ phổ biến của hiện thực khách quan. Muốn vạch mở được sự phong phú các tính quy luật biện chứng, thì phải khảo sát mối liên hệ hữu cơ và sự phụ thuộc lẫn nhau của hệ thống phạm trù phản ánh chúng. Lần đầu tiên vấn đề phạm trù được trình bày bao quát trong triết học Hegel (Hêghen). Ông cũng lấy các nguyên tắc biện chứng làm cơ sở cho hệ thống các phạm trù của mình, trình bày các phạm trù trong sự vận động, phát triển, chuyển hóa lẫn nhau, và xét chúng như là những nấc thang phát triển của ý niệm tuyệt đối. Không phải ngẫu nhiên mà mặc dù là nhà duy tâm, Hegel (Hêghen) vẫn tài tình đoán ra tình hình thực tế của các đối tượng. Trong hệ thống phạm trù đầy mâu thuẫn, Hegel (Hêghen) đã tái hiện được một loạt các tính quy luật và mối liên hệ phổ biến sâu sắc.
Vấn đề về mối liên hệ giữa các phạm trù đã được giải quyết một cách duy vật triệt để trong triết học mácxít.
Nếu Hegel (Hêghen) rút ra mối liên hệ của các phạm trù từ sự vận động của tư duy, ý niệm, thì Lênin lại xem xét các phạm trù như là các hình thức phản ánh phổ biến về hiện thực, như những nấc thang phát triển của nhận thức xã hội và thực tiễn. Mỗi phạm trù gắn với một thời kì phát triển nhận thức nhất định. Trong khi ghi nhận những thuộc tính và mối liên hệ phổ biến do nhận thức vạch ra ở một thời kì phát triển của nó, các phạm trù phản ánh những đặc thù của thời kì đó là những điểm tựa để con người vươn cao tiếp tục nhận thức, là những điểm nút đánh dấu bước chuyển của nhận thức từ thời kì này sang thời kì khác. Lênin viết: “Trước con người, có mạng lưới những hiện tượng tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững được màng lưới”.
Lênin rút sự liên hệ giữa các phạm trù ra từ các tính quy luật của tồn tại và nhận thức. Ông cho rằng tương quan giữa chúng, trong khi phản ánh mối tương quan của các mặt và các mối liên hệ phổ biến tương ứng, cũng thể hiện cả sự vận động tất yếu của nhận thức từ thấp lên cao. Sự xuất hiện của bất kì phạm trù mới nào cũng đều được quy định bởi chính tiến trình phát triển của nhận thức. Nhận thức thâm nhập ngày càng sâu vào thế giới các đối tượng, vạch ra những mặt và những mối liên hệ phổ biến mới mà các phạm trù cũ đã không thể bao quát được và do vậy đòi hỏi những phạm trù mới để phản ánh phù hợp hơn. Khi đã xuất hiện, mọi phạm trù mới đều tất yếu liên hệ với các phạm trù cũ. Chúng có vị trí thích hợp trong hệ thống chung các phạm trù và được xác định bởi quá trình nhận thức đang phát triển.
Hãy khảo sát khái quát trình tự con người ý thức được các mặt và mối liên hệ phổ biến của hiện thực xung quanh.
Khác với động vật không tự tách mình ra khỏi tự nhiên, con người có ý thức đã tách mình ra khỏi môi trường xung quanh, thấy được tồn tại đặc biệt của mình khác với tồn tại của các đối tượng, ý thức được cả sự tách biệt xác định của mình cũng như sự tách biệt của các đối tượng khác mình. Để biểu thị sự tách biệt đó của tồn tại, khái niệm cái riêng – đối tượng, hiện tượng riêng rẽ đã dần hình thành.
Trong hoạt động sống, cùng với việc ý thức được sự tách biệt của mình, con người cũng ý thức được cả sự liên hệ của mình với thế giới bên ngoài và sự liên hệ giữa các đối tượng ngoài với nhau. Vì sự liên hệ gắn bó hữu cơ với sự vận động, nên khi ý thức được mối liên hệ giữa các đối tượng, con người tất phải ý thức được thêm rằng, các đối tượng đó biến đổi và vận động. Khi làm các công việc cụ thể, con người tất đụng phải các quan hệ không gian. Trong lao động làm thay đổi đối tượng tự nhiên con người rõ dần ra đặc trưng của những biến đổi đó như độ lâu, nhanh của chúng, tương quan của trạng thái này với các trạng thái trước và sau đó, với những thứ cần diễn ra trong tương lai. Như vậy, người ta dần học được cách phân biệt quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều đó đánh dấu sự xuất hiện khái niệm thời gian.
Đồng thời với việc chuyển nhận thức từ các đối tượng riêng sang mối liên hệ, vận động, không gian, thời gian thì con người cũng ý thức được những nét chung của hiện thực như đơn nhất và phổ biến. Mỗi đối tượng riêng lần đầu gặp trong thực tiễn được con người tiếp nhận như là cái duy nhất. Nếu nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thì nó được tách ra. Theo mức độ phát hiện ra các đối tượng khác cũng có thể thỏa mãn cùng nhu cầu đó, thì diễn ra bước chuyển sang một số đối tượng sang “nhiều”. Kết quả của việc so sánh nhiều đối tượng như thế với nhau cả trong thực tiễn lẫn trong ý thức sẽ làm rõ ra sự đồng nhất (giống nhau) của chúng, trên cơ sở đó định hình các biểu tượng chung, rồi sau đó là các khái niệm chung.
Cũng ở giai đoạn phát triển đó của nhận thức đã dần hình thành khái niệm chất và lượng. Khi xét đối tượng riêng như là duy nhất trong loại của mình và cố hiểu xem nó là gì, thì con người đã phản ánh nó từ khía cạnh chất. Và vì đối tượng ở đây còn được xét tự thân, ngoài quan hệ với các đối tượng khác, thì lượng của nó còn chưa được phân biệt, và thực chất là hợp nhất với chất. Dần dần con người chuyển từ đối tượng đơn nhất sang đối tượng nhiều và so sánh chúng với nhau để biết sự khác nhau của chúng, thế là bắt đầu lộ ra các đặc trưng lượng. Mỗi mặt, thuộc tính của chất, dường như được tách đôi, cùng với việc phát hiện nó là gì, thì cũng phải biết độ lớn, mức độ biểu hiện và lan truyền của nó, tóm lại, là lượng của nó.
Lúc đầu người ta chưa thấy được sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chất và lượng. Nhận thức sâu sắc thêm các đối tượng, con người bắt đầu thấy rằng, chất và lượng không tách rời nhau, chúng liên hệ với nhau. Từ sự ý thức được mối liên hệ giữa lượng và chất con người bắt đầu hiểu rằng, những biến đổi ở một mặt của đối tượng quy định những biến đổi nhất định ở mặt kia. Vậy cái sinh ra cái kia, quy định sự xuất hiện của cái kia, chính là nguyên nhân, còn cái được xuất hiện, bị quy định, là kết quả. Việc con người quan sát mối liên hệ chất- lượng đã dẫn họ đến ý nghĩ về tính nhân quả, và cùng với đó, nhất định phải định hình các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
Mối liên hệ nhân quả mang tính chất tất yếu. Như vậy, tính tất yếu lúc đầu được ý thức như là thuộc tính của mối liên hệ nhân quả. Sự phát triển tiếp theo của nhận thức đã chính xác hóa và mở rộng thêm nội dung của khái niệm này. Không chỉ các mối liên hệ nhân quả là có tính tất yếu, mà mọi mối liên hệ khác, các mặt, các thuộc tính, một khi đã nhất định xuất hiện trong những điều kiện xác định, thì cũng đều mang tính tất yếu.
Những mối liên hệ tất yếu thường được khoa học phát biểu dưới dạng các quy luật, tức là phạm trù phản ánh những mối liên hệ khách quan, chung, tất yếu, bền vững.
Song hành với sự vận động của nhận thức từ tính nhân quả đến tính tất yếu và quy luật là sự chuyển sang các phạm trù nội dung và hình thức. Nhận thức không dừng lại ở việc làm rõ từng mối liên hệ nhân quả riêng rẽ, mà tiếp tục tiến lên để có tri thức càng đầy đủ hơn về các đối tượng bên ngoài, chuyển từ một mối liên hệ nhân quả này sang mối liên hệ khác, từ việc giải thích một thuộc tính này sang những thuộc tính khác. Như vậy là có nhiều yếu tố, thuộc tính, mối liên hệ cấu thành đối tượng, và để biểu thị tổng thể chúng cần xuất hiện phạm trù nội dung. Nhưng khi nhận thức các tương tác và những biến đổi do chúng gây ra, con người cũng nắm bắt và dần tái tạo lại trong ý thức những cách thức bề ngoài, sau đó là bên trong của sự kết hợp các yếu tố của nội dung, đó là hình thức.
Sự tách biệt trong nhận thức cái tất yếu với cái ngẫu nhiên và việc vạch ra các quy luật riêng của đối tượng, vẫn chưa phải là tri thức đầy đủ về nó, bởi đó mới chỉ liên quan đến các mặt và những mối liên hệ riêng rẽ. Và cho dù có nhận thức được rất nhiều các mặt và các mối liên hệ của đối tượng, thì tổng thể chúng cũng chưa thể cho con người tri thức thực sự đầy đủ về nó, vì đối tượng không chỉ là tổng số giản đơn các mặt, mà là một chỉnh thể hữu cơ, là sự thống nhất biện chứng của chúng. Vì thế phải kết hợp tất cả các mặt và các mối liên hệ đó về chỉnh thể duy nhất, rút chúng ra từ một gốc thống nhất. Sự tái tạo tất cả các mặt và các quy luật tất yếu của đối tượng dựa trên mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau tự nhiên của chúng chính là bản chất.
Sự vận động đến bản chất bắt đầu từ việc làm rõ cơ sở của các mặt, các quan hệ cơ bản quyết định sự hình thành, vận hành, chiều hướng phát triển của tất cả các mặt khác của đối tượng. Vì phải khảo sát nó trong sự sinh thành và phát triển, nên phải làm rõ nguồn gốc, động lực của phát triển. Và nhận thức thấy ra nguồn gốc đó là mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập ở mọi đối tượng, chính xác hơn, là trong cơ sở của nó.
Khi vạch ra được các mâu thuẫn vốn có ở cơ sở và dõi theo sự phát triển của chúng cũng như sự biến đổi do chúng gây ra ở các mặt khác của đối tượng, con người sẽ nhận ra rằng, sự phát triển diễn ra thông qua sự phủ định trạng thái này bởi các trạng thái khác, qua việc giữ lại những yếu tố tích cực từ trạng thái bị phủ định và sự lặp lại con đường đã qua trên cơ sở mới, cao hơn.
Nếu đã biết được đối tượng đó xuất hiện như thế nào, nó đã trải qua những giai đoạn phát triển cơ bản nào, thì có thể dự báo đối tượng, đó sắp tới sẽ trở thành gì. Nói cách khác, nếu biết bản chất của đối tượng thì có thể suy đoán không chỉ về các trạng thái đã có thực, mà còn cả các trạng thái có thể của nó. Điều đó lại rất yếu đòi hỏi phải có các phạm trù khả năng vì hiện thực. Trên đây là nêu một cách khái quát con đường hình thành các phạm trù trong nhận thức, còn chúng phản ánh gì, nội dung của chúng là gì sẽ được xét chi tiết dưới đây.


2.2. Cái chung và cái riêng


Trong hiện thực mỗi đối tượng tồn tại tự thân đều là thể hiện sự kết hợp những thuộc tính đơn nhất (không lặp lại) và thuộc tính chung. Sự thống nhất hai loại thuộc tính đó trong từng đối tượng được triết học khái quát lại thành phạm trù “cái riêng”
Thực vậy, vì là một bộ phận của vật chất, là một biểu hiện của nó, mỗi đối tượng phải phục tùng những quy luật vận động và phát triển thống nhất của vật chất và cũng có thuộc tính được lặp lại ở các đối tượng khác. Triết học khái quát thuộc tính cùng có ở nhiều đối tượng thành phạm trù “cái chung”.
Nhưng mỗi đối tượng lại có những thuộc tính không hề lặp lại hết ở các đối tượng khác, tức là những thuộc tính chỉ riêng mình nó có. Triết học khái quát loại thuộc tính không có ở các đối tượng khác thành phạm trù “cái đơn nhất”.
Trong lịch sử triết học đã có hai xu hướng – duy thực và duy danh – đối lập nhau trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Ở đây có hai cách luận giải: cách luận giải thứ nhất, khá phổ biến, cho rằng cái chung mang tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới dạng các khái niệm chung; cách luận giải thứ hai cho rằng cái chung mang tính vật chất, tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm tất cả, tự trùng với mình hoặc dưới dạng nhóm các đối tượng…Còn cái riêng, hoặc hoàn toàn không có (do xuất phát từ Plato vốn coi các sự vật cảm tính là không thực, chỉ là bóng của những ý niệm), hoặc nó tồn tại phụ thuộc vào cái chung, là cái thứ yếu, tạm thời, do cái chung sinh ra.
Các nhà duy danh cho rằng cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan. Chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại trong tư duy con người. Cái chung chỉ là tên gọi, danh xưng của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một số (như Ockham (Occam)) cho rằng cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số khác (như Berkeley (Bơ-kơ-li)) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng…
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu hướng đó trong việc lí giải mối quan hệ cái chung – cái riêng. Thuộc tính nên phải gắn với đối tượng xác định. Chỉ cái riêng (đối tượng, quá trình, hiện tượng riêng) mới tồn tại độc lập. Còn cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt của cái riêng.
Cái chung không tồn tại độc lập, mà là một mặt của cái riêng và liên hệ không tách rời với cái đơn nhất, hệt như cái đơn nhất liên hệ chặt chẽ với cái chung. “Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung…”. Cái riêng không vĩnh cửu, nó xuất hiện, tồn tại một thời gian xác định rồi biến thành cái riêng khác, rồi lại thành cái riêng khác nữa…cứ thế mãi vô cùng. Lênin viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình). Nó “chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung” và có khả năng chuyển hóa ở những điều kiện phù hợp thành cái riêng bất kì khác.
Mọi cái riêng (da bạch tạng) đều là sự thống nhất các mặt đối lập, nó đồng thời vừa là cái đơn nhất vừa là cái chung. Thông qua những thuộc tính, những đặc điểm không lặp lại của mình, nó thể hiện là cái đơn nhất (một người bạch tạng là cái đơn nhất so với nhiều người); nhưng thông qua những thuộc tính lặp lại ở các đối tượng khác (một số người da bạch tạng lại là cái chung so với nhóm người bạch tạng) – lại thể hiện là cái chung. Trong khi là những mặt của cái riêng, cái đơn nhất và cái chung không đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhau và trong những điều kiện xác định chuyển hóa vào nhau. Cái chung và cái riêng chuyển hóa lẫn nhau thông qua cặp ba cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến.
Cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến
Để làm rõ cái đơn nhất, cần phải so sánh đối tượng được xét với tất cả các đối tượng khác. Nhưng thực tế không thể làm được điều đó. Vì thế, người ta thường so sánh một đối tượng chỉ với một số xác định các đối tượng. Do đó, cái chung không đối lập với cái đơn nhất, mà với cái vừa ít chung hơn, vừa ít đơn nhất hơn, tức là với cái đặc thù. Việc so sánh thuộc tính của một đối tượng với thuộc tính của tất cả đối tượng cho sự hình dung về cái đơn nhất, nhưng nếu so sánh thuộc tính của một số đối tượng với thuộc tính của tất cả, sẽ cho hình dung về cái đặc thù. Như vậy, các đặc thù chỉ ra sự khác biệt cùng có ở một số cái riêng với cái chung vốn có ở tất cả cái riêng.
Nếu dựa vào những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng, hoặc ở tất cả các giai đoạn, trạng thái vận động khác nhau của cùng một đối tượng, thì không thể phân biệt chúng với nhau. Những thứ đó không thể là cái đặc thù, mà phải là cái chung làm cơ sở cho sự tồn tại bền vững của mọi đối tượng, hoặc gắn kết các giai đoạn, trạng thái vận động khác nhau của đối tượng về một cội nguồn. Kiểu cái chung này được gọi là cái phổ biến biểu thị sự giống nhau, sự đồng nhất sâu trong cơ sở, bản chất và các tính quy luật của lớp đối tượng hoặc của một đối tượng ở cái giai đoạn phát triển khác nhau của nó, vì thế cái phổ biến mới là phạm trù cùng cấp độ với “bản chất”, “quy luật” (Lênin) và có thể dùng chúng thay thế lẫn nhau. Cả Hegel (Hêghen) và Mác đều dùng cái phổ biến như phạm trù liên quan đến sự sinh thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau của cùng một đối tượng. Ở từng giai đoạn phát triển của đối tượng, cái phổ biến (bản chất, quy luật) đều biểu hiện như cái đặc thù. Trong nhận thức các hiện tượng xã hội, việc chỉ ra cái phổ biến tương đối dễ hơn so với việc nhận diện cái đặc thù chỉ biểu hiện ở từng giai đoạn phát triển xác định của đối tượng.
Như vậy, có thể nói mọi cái phổ biến đều là cái chung theo nghĩa hình thức, tức là chúng đều bao gồm những cái như nhau ở mọi đối tượng, giai đoạn vận động của chúng. Nhưng không phải mọi cái chung đều là cái phổ biến, bởi cái chung chỉ những thuộc tính cùng có ở tất cả đối tượng, nhưng các thuộc tính đó mới chỉ là bề ngoài, hình thức, chưa phải là những yếu tố cấu thành bản chất, nội dung và quy luật của các đối tượng, mà cái phổ biến phải là cái chung trong bản chất, quy luật của đối tượng.
Nhìn vào biện chứng của cái phổ biến và cái đặc thù trong sự vận động từ thấp lên cao của vật chất, ta sẽ thấy rằng, ở đây không đơn giản chỉ là sự gắn bó giữa các mặt khác nhau của đối tượng, mà còn là sự gắn bó giữa các hình thức vận động khác nhau của vật chất. Mỗi bậc vận động cao của vật chất bao chứa trong mình bậc thấp hơn và do vậy có nhiều cái chung với nó. Nhưng tính chung đó là khác so với tính chung trong phạm vi một hình thức vận động của vật chất, trong khuôn khổ của cùng một giai đoạn phát triển. Tính chung đó bị khúc xạ thông qua đặc thù của các bậc vận động cao và chỉ có thể được hiểu như là mắt khâu gắn kết cái thấp với cái cao, như là thời đoạn đã được cải biến trong nội dung của cái cao nhất. Như vậy, ở giai đoạn phát triển thấp, cái phổ biến chỉ bao quát những yếu tố nội dung mà cách này hay khác được bảo tồn và có mặt trong nội dung của đối tượng ở bậc phát triển cao hơn dưới dạng được cải biến. Còn ở bậc phát triển cao, thì cái phổ biến đó chỉ bao quát cái làm cho đối tượng giống với những đối tượng những bậc phát triển thấp hơn.
Khác hơn một chút là mối liên hệ cái chung và cái đặc thù trong những đối tượng ở cùng một giai đoạn phát triển. Ở đây, cái chung đúng là bản chất của chúng, là cơ sở để chúng cùng chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Do vậy, ở trường hợp này dùng thuật ngữ “cái phổ biến” thích hợp và đúng hơn “cái chung”. Còn liên quan đến cái đặc thù thuộc về cùng một giai đoạn phát triển, thì ở đây nó không đụng chạm gì đến bản chất, mà chỉ là hình thức biểu hiện, phương thức tồn tại riêng của nó.


2.3. Nguyên nhân và kết quả


Các nhà duy vật siêu hình coi nguyên nhân là đối tượng sinh ra đối tượng khác, còn kết quả là đối tượng được sinh ra. Vậy, nguyên nhân không nằm trong chính đối tượng mà nằm ở đối tượng khác, tức là bên ngoài nó. Dĩ nhiên, có nguyên nhân bên ngoài, nhưng nó không xác định bản chất của đối tượng. Bản chất của đối tượng do các nguyên nhân bên trong xác định. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân là sự tương tác giữa các đối tượng hay các yếu tố cấu thành đối tượng. Còn kết quả là sự biến đổi của các đối tượng, hay yếu tố tương tác lẫn nhau. Nguyên nhân là sự tương tác của ít nhất hai đối tượng. Ăngghen viết: “Tất cả những quá trình tự nhiên đều có hai mặt: chúng đều dựa vào sự quan hệ ít nhất của hai bộ phận đang tác động, là tác động và phản tác động”.
Những đặc trưng cơ bản của liên hệ nhân quả.
Tính kế tiếp theo thời gian là đặc trưng quan trọng: nguyên nhân luôn có trước kết quả. Bởi vì, trong khi là sự tương tác các bộ phận của đối tượng hoặc giữa các đối tượng riêng, nguyên nhân bắt đầu tác động, thực hiện các chức năng của mình khi kết quả còn chưa có. Kết quả xuất hiện muộn hơn. Để nó xuất hiện, tất phải cần thời gian cho các bên tương tác gây ra trong nhau những thay đổi. Nguyên nhân là quá trình tương tác, còn kết quả là cái sinh ra từ sự tương tác đó. Nếu như sự tương tác và kết quả cuối cùng lại không có thời gian tách nhau, thì không thể có lịch sử hay sự phát triển nào. Khi đó mọi thứ đều diễn ra trong nháy mắt ở quá khứ xa xôi vô cùng hay bị hòa tan vào dòng xoáy liên tục các biến đổi, không còn sự bền vững và tính xác định về chất. Nhờ có tương tác các đối tượng chuyển hóa vào nhau và vào những trạng thái mới. Tất cả những sự chuyển hóa đó đều là những mắt xích của sợi dây nhân quả đang khai triển từ hiện tại tới tương lai.
Mọi quá trình khách quan đều tiến triển từ nguyên nhân tới kết quả. Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên trong nhận thức đối tượng cần phải giải thích mọi thuộc tính cố hữu và những biến đổi của nó từ những tương tác có trước về thời gian. Đặc trưng này của liên hệ nhân quả liên quan trực tiếp đến sự phát triển của vật chất. Nó tham gia một cách hữu cơ vào cơ chế sinh ra cái mới và cho thấy bước chuyển từ một trạng thái cũ sang trạng thái mới diễn ra như thế nào.
Con người không chỉ quan sát tính kế tiếp về thời gian xuất hiện của các đối tượng, mà còn tích cực tác động tạo ra các điều kiện thích hợp, buộc chúng tương tác với nhau, gây ra những biến đổi xác định theo mục đích của mình, và bằng cách đó tạo ra những đối tượng thích hợp. Hoạt động thực tiễn của con người chứng tỏ rằng, kết quả không chỉ giản đơn kế tiếp sau nguyên nhân, mà còn được nó sinh ra. Ăngghen viết: “…nhờ hoạt động của con người mà hình thành quan niệm về tính nhân quả, quan niệm về một vận động này là nguyên nhân của vận động khác…”
Nguyên nhân có thể truyền sang cho kết quả những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở nó, nhưng không phải tất cả những thuộc tính và mối liên hệ ở kết quả đều từ nguyên nhân mang sang. Trong phần lớn các trường hợp, kết quả là sự xuất hiện cái mới – những thuộc tính và mối liên hệ chưa hề có ở nguyên nhân và chỉ mới được sinh ra nhờ tương tác. Do vậy, từ những tương tác, có thể giải thích các thuộc tính và những mối liên hệ ở kết quả vừa như là sự kế thừa từ nguyên nhân vừa như là cái mới xuất hiện do tương tác. Trên thực tế, sự tương tác giữa các đối tượng tất phải làm chúng biến đổi. Do vậy, tính tất yếu cũng là đặc trưng quan trọng nhất của quan hệ nhân quả và là hình thức biểu hiện phổ biến của nó.
Nếu trong hiện thực khách quan mối liên hệ giữa các đối tượng tương tác với những thay đổi do chúng gây ra luôn là tất yếu, thì cả các tư tưởng tái tạo lại tính quy định nhân quả của đối tượng, cũng cần phải kế tiếp nhau, tất yếu liên hệ với nhau.
Mỗi nguyên nhân tất yếu sinh ra kết quả xác định, nhất nhất gắn với kết quả. Cùng một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Mỗi một trong số các nguyên nhân ở các điều kiện tương ứng đều có khả năng sinh ra kết quả đó, liên hệ với nó một cách tất yếu. Vì thế, trong quá trình nhận thức, có thể dùng một nguyên nhân nào đó bất kì nguyên nhân nào trong số chúng cũng đều là đủ để giải thích kết quả. 
Có những kết quả lại do nhiều nguyên nhân tác động cùng nhau sinh ra. Do vậy, từng nguyên nhân chỉ là cần để giải thích kết quả, và phải tất cả chúng cùng nhau mới là đủ. Điều này thể hiện rõ ở suy luận logic từ kết quả đến nguyên nhân. Bởi cùng một kết quả có thể do một số nguyên nhân độc lập sinh ra, nên kết quả không chứa khả năng suy ra nguyên nhân thực sự trong trường hợp cụ thể. Kết quả chỉ là căn cứ để xây dựng giả thuyết về nguyên nhân.
Nếu nhiều nguyên nhân cùng sinh ra kết quả, thì sẽ có nguyên nhân quyết định, không thể thay thế, thiếu nó kết quả không thể xuất hiện, và những nguyên nhân dù có can dự vào sự sinh ra kết quả, nhưng chúng có thể không cần, hay thay thế được. Loại thứ nhất là nguyên nhân cơ bản. Loại thứ hai là nguyên nhân không cơ bản. Trong nhận thức, chủ thể cần phải nắm được nguyên nhân cơ bản, thực chất sinh ra kết quả.


2.4. Tất nhiên và ngẫu nhiên


Quan niệm về tất nhiên được hình thành trên cơ sở làm rõ liên hệ nhân quả. Đầu tiên tất nhiên được xem như một đặc trưng của liên hệ nhân quả. Dần dần con người đã nhận ra, tất nhiên vốn có không chỉ ở liên hệ nhân quả, mà còn ở các mối liên hệ khác (như chức năng, cấu trúc…), và cũng không chỉ ở các mối liên hệ, mà còn ở sự tồn tại của các đối tượng và thuộc tính. Khái niệm tất nhiên tách ra khỏi khái niệm nhân quả, có tính độc lập và được xét không cùng cặp với nhân quả, mà với ngẫu nhiên.
Sự xuất hiện và tồn tại của đối tượng cùng với các bộ phận, thuộc tính và những mối liên hệ có nguyên nhân trong chính mình và do bản chất nội tại của chúng quy định, được gọi là tất nhiên. Còn sự xuất hiện và tồn tại có nguyên nhân bên ngoài, ở cái khác, tức do ngoại cảnh quy định,được gọi là ngẫu nhiên. Những thuộc tính và liên hệ tất nhiên ở những điều kiện tương ứng tất yếu phải nảy sinh, còn sự xuất hiện của các thuộc tính và liên hệ ngẫu nhiêu không nhất thiết, chúng có thể có mà cũng có thể không. Trong hiện thực khách quan, không có tất nhiên thuần túy, tồn tại cô lập, mà nó liên hệ hữu cơ với ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên cũng tồn tại khách quan, bên ngoài và không phụ thuộc ý thức cũng như hoạt động nhận thức của con người.
Sự tồn tại khách quan của cả tất nhiên lẫn ngẫu nhiên đều có nguồn gốc từ tính nhân quả. Nếu cơ sở của tất nhiên là một mối liên hệ nhân quả tuyến tính duy nhất, thì cơ sở của ngẫu nhiên là sự giao thoa của hai (hay một số) liên hệ nhân quả. Các mắt xích của từng dãy gắn với nhau một cách tất yếu, nhưng sự giao thoa của chúng lại tạo ra những nguyên nhân mới, làm xuất hiện những tương tác không bắt nguồn từ bản chất nội tại của các đối tượng tham gia tương tác khiến sinh ra các đối tượng ngẫu nhiên. Tuy là ngẫu nhiên nhưng những tương tác này cũng tất yếu gây ra những biến đổi. Như vậy, tất nhiên và ngẫu nhiên gắn bó hữu cơ, tương tác với nhau, rồi chuyển hóa vào nhau, quy định sự xuất hiện những đối tượng và trạng thái chất mới.
Tính quy luật của mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên
Từng đối tượng trong cùng thời gian vừa là tất nhiên, vừa là ngẫu nhiên. Một số thuộc tính và mối liên hệ của nó do những nguyên nhân bên trong quy định, thể hiện bản chất, một số thuộc tính và mối liên hệ khác của do các nguyên nhân bên ngoài, do sự tương tác của nó với môi trường xung quanh. Các số khác này ngẫu nhiên có mặt, do vậy chỉ là hình thức thể hiện của các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên. Tất nhiên mở đường đi cho mình thông qua vô vàn những ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên thường biểu hiện như là các xu hướng của tất nhiên, chúng mang vào quá trình cụ thể những phương án mới không là tất nhiên, mà do những hoàn cảnh bên ngoài quy định.
Do vậy, hoạt động thực tiễn không thể hướng vào ngẫu nhiên, mà phải dựa vào cái tất nhiên. Còn trong nhận thức, việc nắm bắt cái tất nhiên là nhiệm vụ cơ bản của khoa học, nhưng vì cái tất nhiên thường biểu hiện thông qua nhiều cái ngẫu nhiên, khiến cho ngẫu nhiên trở thành hình thức của tất nhiên, nên nhận thức nó cần thông qua nghiên cứu cái ngẫu nhiên, vạch ra trong ngẫu nhiên những xu hướng tất nhiên.
Là hình thức biểu hiện của tất nhiên, ngẫu nhiên còn là sự bổ sung cho cái tất nhiên, bởi lẽ nội dung của cái tất nhiên không chỉ gồm bản chất đặc thù của đối tượng, mà còn có những điểm đặc thù của đối tượng khác tương tác với nó. Không chỉ lệ thuộc và liên hệ với nhau, trong tiến trình vận động của đối tượng, mà chúng luôn chuyển hóa, thay đổi vị trí cho nhau, ngẫu nhiên trở thành tất nhiên, và ngược lại. Sự chuyển hóa này thể hiện rõ qua ví dụ về sự phát triển các loài sinh vật, và phần nào trong xã hội loài người.


2.5. Khả năng và hiện thực


Đặc điểm chung của các quá trình biến đổi và phát triển là, hiện tại bị quy định bởi quá khứ, tương lai – bởi hiện tại. Biện chứng của sự liên hệ lẫn nhau giữa chúng được phản ánh trong các phạm trù “hiện thực” và “khả năng”. Phạm trù là khả năng phản ánh thời kì hình thành đối tượng, khi nó mới chỉ tồn tại dưới dạng tiền đề hay với tư cách là xu hướng. Vì thế khả năng là tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của hiện thực mới, là cái có thể có, nhưng bây giờ còn chưa có; hiện thực là kết quả sự sinh thành, là sự thực hiện khả năng, và là cơ sở để định hình những khả năng mới.
Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực
Là những mặt đối lập, khả năng và hiện thực thống nhất biện chứng với nhau: chúng loại trừ nhau theo những dấu hiệu căn bản nhất, nhưng không cô lập hoàn toàn với nhau. Sinh ra từ trong lòng hiện thực và đại diện cho tương lai ở thời hiện tại, khả năng làm bộc lộ hết tính tương đối của hiện thực. Thông qua tính tương đối đó mà hiện thực hóa sự liên tục của các quá trình biến đổi. Mọi đối tượng đều bắt đầu phát triển từ sự chín muồi các tiền đề sinh thành của nó. Hiện thực bao chứa trong mình phần lớn các khả năng, nhưng không phải tất cả mọi khả năng đều được hiện thực hóa. Sự hiện thực hóa từng khả năng đòi hỏi các điều kiện tương ứng, nhưng rất có thể thiếu điều kiện như thế. Trong xã hội, sự hiện thực hóa một khả năng nào đó không tách rời hoạt động thực tiễn, mà hoạt động đó chỉ có thể thành công khi con người tính đến các khả năng vốn có ở hiện thực, ở các xu hướng biến đổi khách quan của nó. Mục đích, phương tiện và các phương thức của hoạt động khách quan của nó. Mục đích, phương tiện và các phương thức của hoạt động đó xét đến cùng cũng gắn với các hoàn cảnh khách quan tương ứng. Đồng thời chính hoạt động thực tiễn như là quá trình chuyển hóa mục đích (khả năng) thành sản phẩm của hoạt động (hiện thực), là sự thống nhất giữa khả năng và hiện thực. Dĩ nhiên, mức độ tự do và hiệu quả của hoạt động đó không phải là vô hạn mà cũng bị các quy luật khách quan quy định.
Các dạng khả năng
Hiện thực thường có nhiều mặt, nhiều xu hướng vận động, nhiều khả năng biến đổi. Chúng giữ vai trò không ngang nhau trong sự vận hành và phát triển hiện thực. Chẳng hạn, sự hiện thực hóa một số khả năng này quy định sự chuyển hóa đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác vẫn trong khuôn khổ chính bản chất đó, sự hiện thực hóa những khả năng khác lại đòi hỏi sự biến đổi bản chất của đối tượng, biến nó thành đối tượng khác. Trong quá trình thực hiện một số khả năng đối tượng chuyển từ thấp lên cao, nhưng ở những khả năng khác – thì lại hạ từ cao xuống thấp. Có khả năng liên quan đến biến đổi về chất, số khác lại liên quan đến biến đổi về lượng của đối tượng. Một số khả năng được hiện thực hóa trong các điều kiện được tạo lập ở hiện tại, nhưng một số khác lại chờ các điều kiện đó được tạo lập ở tương lai xa. Hoạt động thực tiễn của con người làm thay đổi hiện thực khách quan chính là thực hiện những khả năng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng.
Có nhiều cơ sở phân loại khả năng. Có thể chia các khả năng thành hai nhóm phụ thuộc vào việc cái gì quy định chúng: các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên hay ngẫu nhiên. Những khả năng bị quy định bởi những thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên của đối tượng được gọi là khả năng thực; còn những khả năng bị quy định bởi các thuộc tính và mối liên hệ ngẫu nhiên, - là khả năng hình thức. Khả năng thực trong những điều kiện thích hợp tất yếu được thực hiện, còn khả năng hình thức – có thể được thực hiện cũng có thể không. Sự phân biệt khả năng thực và khả năng hình thức có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động thực tiễn: khi đặt ra mục đích, xây dựng chương trình, thực hiện hành vi, con người cần phải xuất phát từ những khả năng thực. Những khả năng hình thức không thể làm cơ sở cho hoạt động có kế hoạch.
Các khả năng chỉ được hiện thực hóa khi có điều kiện thích hợp. Phụ thuộc vào mối liên hệ với những điều kiện này như thế nào, khả năng được chia ra thành khả năng cụ thể và khả năng trừu tượng. Loại thứ nhất là những khả năng mà để thực hiện chúng hiện đã có đủ điều kiện, loại thứ hai là những khả năng mà ở thời hiện tại còn chưa có những điều kiện thực hiện chúng, nhưng điều kiện có thể xuất hiện khi đối tượng đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Để lập những kế hoạch trước mắt, xác định cách thức giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn đã chín muồi thì cần phải xuất phát từ những khả năng cụ thể, chứ không thể căn cứ vào các khả năng trừu tượng.
Nói riêng về khả năng, thì tất cả chúng được chia ra thành khả năng bản chất và khả năng chức năng. Khả năng bản chất là những khả năng mà việc thực hiện chúng làm biến đổi bản chất của đối tượng; còn khả năng chức năng là những khả năng gây ra sự biến đổi thuộc tính, trạng thái của đối tượng, mà vẫn không làm thay đổi bản chất. 
Nếu tính đến kết quả thực hiện khả năng dẫn đến việc chuyển từ thấp lên cao hay ngược lại, hoặc từ trạng thái này sang trạng thái khác ở cùng một trình độ phát triển thì có thể chia các khả năng ra thành tiến bộ, thoái bộ và đứng yên.
Căn cứ vào tính xác định chất hay lượng của đối tượng bị biến đổi do thực hiện khả năng gây ra mà chia ra thành khả năng chất hay khả năng lượng. Việc khảo sát các khả năng thông qua quan hệ mâu thuẫn là cơ sở chia các khả năng ra thành khả năng loại trừ và khả năng tương hợp. Loại thứ nhất là khả năng mà việc thực hiện nó khiến khả năng khác bị triệt tiêu, trở thành mất khả năng; loại thứ hai là khả năng mà việc chuyển hóa nó thành hiện thực không thủ tiêu khả năng khác. Vật chất chứa đựng vô hạn các khả năng, chứng tỏ tính vô cùng và sự phát triển không giới hạn của nó.
Trong tư duy về phát triển xã hội, khả năng bao giờ cũng là khả năng khách quan, nó không tự động trở thành hiện thực. Hiện thực xã hội tốt đẹp chỉ có thể sinh thành và trưởng thành bởi hoạt động thực tiễn. Con người quyết định về sự kết hợp tốt nhất cái khách quan với những nỗ lực chủ quan.


2.6. Nội dung và hình thức


Việc nhận thức những mối liên hệ nhân quả tất nhiên mới buộc phải làm sáng tỏ tổ chức của những mối liên hệ đó. Cùng với việc tích lũy tri thức về đối tượng như là chỉnh thể các bộ phận tương tác liên hệ với nhau, con người cần xây dựng các phạm trù tương ứng là nội dung và hình thức.
Nội dung của đối tượng là tổng thể các bộ phận, yếu tố hợp thành nó, những tương tác và biến đổi trong nó. Nội dung không chỉ bao gồm các bộ phận và sự tương tác của chúng với nhau, tức là những tương tác bên trong, mà còn quy định cả những tương tác với những đối tượng bên ngoài khác. Chẳng hạn, nội dung của phương thức sản xuất gồm hai bộ phận là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mà trong sự thống nhất với nhau chúng cùng quy định đời sống xã hội, chính trị và tinh thần của con người – là những yếu tố nằm ngoài phương thức sản xuất.
Hình thức của đối tượng là cách thức tổ chức, sắp xếp, liên hệ các bộ phận của nó. Hình thức của phương thức sản xuất là mối liên hệ được thể hiện trong quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Hình thức của tác phẩm nghệ thuật – trước hết là sự phối cảnh, tình tiết và ngôn ngữ…
Mọi đối tượng đều luôn có cả nội dung lẫn hình thức. Không ở đâu và không khí nào lại có nội dung thiếu hình thức và hình thức phi nội dung. Trong khi liên hệ hữu cơ với nhau nội dung và hình thức là những mặt đối lập của đối tượng. Biến đổi là xu hướng chủ đạo của nội dung. Còn bền vững lại là xu hướng chủ đạo của hình thức.
Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức
Vì mỗi bộ phận, thuộc tính của đối tượng tất yếu phải có những mối liên hệ với nhau, cho nên, nội dung đã bao chứa cả hình thức. Mặt khác, sự tổ chức các mối liên hệ bền vững đồng thời là sự tổ chức các bộ phận. Do vậy, có thể nói, cả hình thức cũng chứa nội dung, và ngay cả trong tư duy, trong sự trừu tượng cũng không thể tách biệt hoàn toàn hình thức khỏi nội dung và ngược lại. Nội dung và hình thức thống nhất với nhau, nhưng chúng có ý nghĩa không như nhau. Nội dung giữ vai trò quyết định, còn hình thức – bị quyết định. Bản thân sự xuất hiện của hình thức và nhiều đặc điểm của nó bị quy định bởi nội dung. Nhưng hình thức có tính tự trị nhất định, tính độc lập tương đối so với nội dung, và cũng tác động lên nó. Sự tác động thường theo hai kiểu. Thứ nhất, hình thức có thể đẩy nội dung phát triển nhanh, khi nó về cơ bản phù hợp với nội dung. Thứ hai, hình thức có thể làm chậm tốc độ phát triển của nội dung, nếu không còn phù hợp với nó.
Ở thời kì đầu tồn tại, hình thức của đối tượng phù hợp với nội dung và do vậy giữ vai trò tích cực trong sự phát triển của nó. Với sự hỗ trợ tích cực của hình thức, nội dung phát triển càng ngày càng xa, còn hình thức về cơ bản vẫn giữ nguyên không đổi. Thời gian qua đi và khuôn khổ chật hẹp của hình thức cũ bắt đầu cản trở nội dung đang biến đổi. Hình thức không còn phù hợp với nội dung nữa, trở nên kìm hãm sự phát triển của nội dung. Sự không tương thích ngày càng lớn dần, giữa chúng xảy ra xung đột. Và cuối cùng nội dung đã đi xa về phía trước vứt bỏ hình thức quá cũ kĩ, thủ tiêu nó. Nhưng thời điểm thủ tiêu hình thức đồng thời cũng là thời điểm biến đổi của nội dung. Sự thủ tiêu những mối liên hệ bền vững đòi hỏi sự biến đổi mạnh các bộ phận của nó và chấm dứt những tương tác lẫn nhau đã tồn tại trước đó. Như vậy, sự phù hợp hình thức và nội dung, sự thống nhất của chúng, cũng như thống nhất chất và lượng, là ranh giới tồn tại của đối tượng.
Từ mối quan hệ giữa nội dung và hình thức có thể rút ra kết luận cho thực tiễn. Vì nội dung quyết định hình thức, nên để làm đối tượng biến đổi theo mục đích thì cần gây ra những biến đổi chủ yếu trong nội dung của nó. Vì hình thức chỉ thúc đẩy sự phát triển của nội dung khi phù hợp với nó nên nếu muốn tác động đẩy nhanh sự phát triển của đối tượng, tất yếu phải thường xuyên theo dõi nội dung đang phát triển trong một hình thức tụt hậu, thấy được mức độ xuất hiện sự không tương thích giữa chúng để can thiệp vào tiến trình khách quan, tạo ra những thay đổi tất yếu trong hình thức, làm cho nó trở lại tương thích với nội dung đang phát triển và đảm bảo không cản trở sự phát triển tiếp theo.
Việc bỏ qua quy luật đó dẫn đến những hậu quả xấu trong thực tiễn. Thói trì trệ, chậm đổi mới các hình thức và phương pháp quản lí, sự gia tăng tệ quan liệu, tuyệt đối hóa những hình thức tổ chức xã hội được hình thành trước đây trong thực tiễn là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng khủng hoảng xã hội và của những xu hướng bất lợi đã bộc lộ ở nước ta những năm gần đây. Xã hội có đạt tới sự phát triển mới về chất hay không phần nhiều phụ thuộc vào việc đổi mới đến đâu những hình thức xã hội già cõi, phong cách và phương pháp làm việc cũ, đưa chúng vào phù hợp đến mức độ nào với những điều kiện đang thay đổi.


2.7. Bản chất và hiện tượng


Khi đã tích lũy các tri thức về thuộc tính và liên hệ tất nhiên riêng rẽ của đối tượng, khám phá những quy luật vận hành và phát triển của nó, thì cũng sẽ xuất hiện nhu cầu kết hợp các tri thức, đưa chúng về một mối. Giai đoạn phát triển này của nhận thức ứng với sự tái tạo lại bản chất như là tổng thể các thuộc tính và các mối liên hệ (quy luật) tất nhiên của đối tượng. Vì bản chất là chỉnh thể được phân tách ra thành tập hợp các mặt liên hệ lẫn nhau, các quan hệ phản ánh cái tất nhiên ở dạng thuần túy, nên nhận thức chỉ có thể tái tạo lại nó thông qua các mô hình tư tưởng, các khái niệm, qua việc xây dựng lí luận.
Như vậy, phạm trù bản chất phản ánh cái bên trong, cái tất nhiên của đối tượng. Bản chất là tổng thể tất cả các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên được xét trong sự phụ thuộc lẫn nhau tự nhiên của chúng, các quy luật vận hành và phát triển của đối tượng. Bản chất xuất hiện, định hình và phát triển cùng với hiện tượng là phạm trù chỉ sự bộc lộ cái bên trong của đối tượng ra mặt ngoài, thông qua vô vàn các thuộc tính và mối liên hệ ngẫu nhiêu được vạch ra do kết quả tương tác của nó với các đối tượng khác. Hiện tượng là những biểu hiện bề ngoài của các mặt và mối liên hệ.
Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. 
Bản chất của đối tượng mang tính khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người. Trong khi tồn tại thực, nó gắn bó hữu cơ với hiện tượng, chỉ lộ rõ mình trong và thông qua hiện tượng. Hiện tượng cũng gắn liền với bản chất, không thể tồn tại thiếu nó. Lênin nhấn mạnh mối liên hệ đó như sau: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”.
Là hình thức biểu hiện của bản chất, hiện tượng khác với nó: nhiều khi bản chất hiện ra dưới dạng xuyên tạc như trường hợp giá trị của hàng hóa chẳng hạn. Hiện tượng luôn phong phú hơn bản chất. Điều này thể hiện rõ qua ví dụ về tương quan giữa giá trị và giá cả của hàng hóa. Giá cả của hàng hóa luôn đa dạng (phong phú) hơn giá trị của nó, bởi lẽ trong chúng không chỉ biểu hiện sự phụ thuộc vào lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất một đơn vị hàng hóa, mà còn vào nhiều yếu tố bên ngoài, như tương quan cung cầu, yếu tố đầu cơ hàng hóa đó trên thị trường.
Ngược với hiện tượng thường đa dạng và hay biến đổi, thì bản chất lại là cái bền vững, tự bảo toàn trong phần lớn các biến đổi đó. Chẳng hạn, giá cả hàng hóa thường xuyên biến động, nhưng giá trị của nó ở khoảng thời gian nhất định thường không đổi. Thể hiện tính quy luật đó của mối tương quan bản chất và hiện tượng, Lênin viết: “… cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng “bản chất”.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất hoàn toàn không đổi. Sự thay đổi của nó chậm hơn ở hiện tượng. Nó biến đổi do, trong quá trình phát triển của đối tượng một số mặt và mối liên hệ tất nhiên bắt đầu tăng cường, giữ vai trò lớn hơn, những số khác lại bị đẩy xuống hàng dưới hoặc biến mất hẳn. Lênin viết: “Không phải chỉ riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế.
Tính quy luật của nhận thức bản chất
Vì bản chất chỉ thể hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng biểu thị nó dưới dạng cải biến, và thường là bị xuyên tạc, cho nên, thứ nhất, trong nhận thức không chỉ tự giới hạn ở việc ghi nhận cái nằm trên bề mặt đối tượng, mà cần phải thâm nhập vào bên trong đối tượng và phải nhìn ra bản chất thực khuất sau hiện tượng; thứ hai, hoạt động thực tiễn cũng không thể xuất phát từ những hiện tượng riêng, mà trước hết cần phải làm theo tri thức về bản chất, các quy luật vận hành và phát triển của đối tượng.


3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật


3.1. Quan niệm biện chứng duy vật về quy luật


Quy luật là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững, tất yếu giữa các đối tượng. “Quy luật khách quan” vốn thuộc biện chứng của sự tồn tại khách quan khác với “quy luật khoa học” vốn là sự khái quát những liên hệ và quy luật khách quan rồi trình bày chúng trong các lí thuyết khoa học bằng những mệnh đề. Do đó, về nguyên tắc, các quy luật khoa học chỉ gần đúng với các quy luật khách quan và thậm chí có thể không đúng với chúng.
Chủ nghĩa duy vật và duy tâm đã đấu tranh từ khi xuất hiện đến nay xung quanh vấn đề nêu trên nhằm hiểu đúng tính chất các quy luật. Trong các hệ thống triết học phương Đông và Hy Lạp cổ đại, quy luật được hiểu là trật tự khách quan, là con đường phát triển tự nhiên của tất cả các đối tượng. Cách lí giải duy tâm (đường hướng Plato) về quy luật đối lập với duy vật (đường hướng Decocritus). Plato (Platôn) cho rằng có các ý niệm biểu hiện là quy luật, còn các sự vật được tạo ra theo hình ảnh của chúng.
Triết học cận đại có cái nhìn khá siêu hình về thế giới, theo đó giới tự nhiên vận động theo các quy luật cơ học và không phát triển theo thời gian. Cách hiểu như vậy cũng ảnh hưởng cả đến việc hiểu quy luật. Quy luật được xem là bản chất vĩnh cửu, không đổi. Người ta chú ý chứng minh tính khách quan của giới tự nhiên, chứ không phải là tính biến đổi của nó, tính khách quan của các quy luật, chứ không phải là tính lịch sử của chúng.
Hume và Kant (Kanto) cùng biểu quy luật theo cách duy tâm chủ quan. Kant đã đúng khi chỉ ra các dấu hiệu của quy luật như tính chung, tính bản chất, tính tất yếu. Tuy nhiên, ông lại cho là chúng chỉ thuộc về các hiện tượng của kinh nghiệm nội tâm và như vậy, chỉ tồn tại trong nhận thức. Điều đó khiến ông biến giác tính thành kẻ điều khiển giới tự nhiên. Lênin đã phê phán cách hiểu này như sau: “Việc suy nguồn gốc của trật tự và của tính tất yếu của giới tự nhiên ra từ ý thức, từ tinh thần, từ logic…chứ không phải từ thế giới khách quan bên ngoài, không những tách tinh thần của con người ra khỏi giới tự nhiên, không những chỉ đối lập hai cái với nhau, mà còn coi giới tự nhiên là một bộ phận của tinh thần, chứ không coi tinh thần là một bộ phận của giới tự nhiên”.
Chủ nghĩa thực chứng mới coi nhận thức khoa học không phải là sự nắm bắt các quy luật phát triển khách quan của tự nhiên và xã hội, mà là sự thiết lập một trật tự, một tương quan nhất định giữa các đối tượng. Hơn nữa, trật tự đó dường như không phụ thuộc vào giới tự nhiên, mà vào các nguyên tắc có điều kiện được chủ thể vạch ra từ trước như những định đề logic. Từ đó nó cho rằng quy luật khoa học là sản phẩm thỏa thuận giữa các nhà khoa học. Do vậy, quy luật khoa học bị coi là thủ thuật tư duy tiện lợi. Chẳng hạn, Vitgenstein cho rằng các quy luật tạo thành màng lưới đặc biệt được chủ thể dùng để trùm lên thế giới đối tượng. Thực ra, các quy luật khoa học phản ánh những mối liên hệ thực có trong hiện thực khách quan không phụ thuộc vào ý thức, vào hoạt động trí óc của con người. Thực tiễn đã xác nhận, chỉ có sử dụng các thành tựu khoa học, dựa trên những lí thuyết do nó xây dựng, trên những quy luật, con người mới thành công, đạt được kết quả mong muốn. Các quy luật khoa học không phải là những kết cấu tư biện được tùy tiện tạo ra, mà là sự phản ánh những mối liên hệ thực của thế giới, của các quy luật khách quan. Chúng được phản ánh, được hoạt động nhận thức của con người tái tạo thành những kết cấu tư tưởng. Nói cách khác, quy luật khoa học không phải được khoa học bịa ra, mà khoa học tìm ra, rút nó ra từ các quy luật vận động của tự nhiên và xã hội. Do vậy, không thể tạo ra các quy luật mới hay thủ tiêu, xóa bỏ các quy luật đang chi phối sự vận động của vật chất. Và không chỉ có vậy, người ta cũng không thể thay đổi chúng, mà chỉ có thể thay đổi hoạt động của mình, nương theo sự tác động của chúng để đạt tới hiệu quả hoạt động tối ưu nhất.
Sự thừa nhận tính khách quan của các quy luật tự nhiên và xã hội là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đối với sự phát triển tri thức khoa học. Khi nhận thức được các quy luật tự nhiên và xã hội, con người tích cực vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn, tức là nếu không thể “làm thay đổi” chúng, thì lại dựa trên chúng để làm thay đổi tự nhiên và xã hội. Lênin viết: “Chừng nào chúng ta chưa biết được một quy luật của giới tự nhiên thì quy luật đó, trong khi tồn tại và tác động (như Mác đã nhắc lại hàng nghìn lần) không lệ thuộc vào ý chí của chúng ta và vào ý thức của chúng ta thì chúng ta trở thành người chủ của giới tự nhiên”. Con người có thể nhờ một số quy luật vạn vật hấp dẫn do Niuton phát hiện ra đã tác động từ lâu trước khi có con người, trong hoạt động con người vẫn tự phát nương theo nó, nhưng khi đã biết nó con người sẽ tổ chức hoạt động của mình phù hợp với sự tác động của nó và có khi còn vô hiệu hóa sự tác động của nó…
Mọi quy luật đều thể hiện cái phổ biến vốn có ở các giai đoạn vận động, thể hiện sự thống nhất các đối tượng đa dạng. Do vậy, những mối liên hệ được phản ánh trong các quy luật cũng không mang tính chất đơn nhất. Mặt khác, điều đó không có nghĩa là những mối liên hệ phổ biến được phản ánh trong quy luật đã thâu tóm hết mọi đối tượng khách quan. Mức độ chung của các đối tượng là khác nhau, do vậy các quy luật cũng có mức độ phổ biến khác nhau và một cách tương đối có thể chia tất cả các quy luật thành ba nhóm: quy luật riêng, quy luật chung và quy luật phổ biến.
Đáng chú ý là các quy luật phổ biến. Chúng là những quy luật của phép biện chứng phản ánh những mối liên hệ phổ biến của tất cả các đối tượng hiện thực. Chúng cũng phản ánh cả nội dung chung, thống nhất vốn có ở các quy luật nhóm thứ nhất và thứ hai. Chẳng hạn, trong thế giới khách quan có nhiều quy luật riêng phản ánh quan hệ giữa các thuộc tính đối lập nhau của vật thể: quy luật tương tác các điện tích trái dấu, các hạt và phản hạt, hút và đẩy; đấu tranh sinh tồn trong cùng một loài và giữa các loài sinh vật; đấu tranh giai cấp trong xã hội…Nội dung của tất cả các quy luật đó bao gồm cái chung, lặp lại, và được bao quát bởi quy luật biện chứng thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập có ý nghĩa phổ biến. Tương tự như vậy là quy luật phủ định của phủ định và quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại.
Việc nhận thức các quy luật khách quan, nhất là các quy luật phổ biến, có ý nghĩa thực tiễn to lớn, tạo điều kiện cho con người làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình được tốt hơn. Dưới đây sẽ là nội dung những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật.


3.2. Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại


Các khái niệm chất, lượng và độ
Mỗi đối tượng đều có nhiều mối liên hệ với các đối tượng khác. Các thuộc tính cố hữu của chúng đều biểu hiện ra trong các liên hệ đó. Một số thuộc tính giúp phân biệt đối tượng cần quan tâm với những đối tượng khác. Tổng thể các thuộc tính cho biết đối tượng là gì, chính là chất của nó. Tổng thể các thuộc tính chỉ ra kích cỡ của đối tượng, quy mô, độ lớn của nó, chính là lượng. Như vậy, có thuộc tính đặc trưng cho đối tượng về chất, số khác – về lượng.
Những mối liên hệ và tương tác của các đối tượng với nhau đến làm bộc lộ ra thuộc tính khác nhau của chúng, thể hiện những chất khác nhau. Như vậy, mỗi đối tượng có thể có nhiều chất. Nhưng trong từng trường hợp cụ thể ở hàng đầu sẽ là một chất xác định, tức là tổng thể các thuộc tính biểu hiện ở đối tượng trong quan hệ đó.
Không chỉ bản thân đối tượng mà ngay từng thuộc tính của nó cũng có tính xác định về chất và lượng, điều này cũng làm cho đối tượng có thể có nhiều chất. Các chất liên hệ với nhau và chịu sự quy định của một chất cơ bản của đối tượng. Chất cơ bản là tổng thể các thuộc tính đặc trưng cho đối tượng ở tất cả các mối liên hệ, ở mọi giai đoạn tồn tại của nó. Ở từng giai đoạn phát triển hay ở từng quan hệ thì chất cơ bản lại thể hiện là chất chủ yếu, chuyển sang giai đoạn phát triển hay quan hệ khác thì chất chủ yếu sẽ thay đổi, nhưng vẫn là biểu hiện cụ thể của chất cơ bản.
Chất và lượng liên hệ không tách rời với nhau và tạo thành độ. Độ là giới hạn về lượng, mà trong phạm vi của nó chất đã xác định vẫn giữ nguyên. Độ cũng như chất và lượng, vốn có không chỉ ở các đối tượng, mà còn ở các thuộc tính của chúng.
Mối quan hệ chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại
Chất và lượng của các đối tượng phụ thuộc lẫn nhau, thống nhất không tách rời. Những thay đổi lượng từ từ, liên tục, tưởng như không đụng chạm gì đến chất, khi đạt giới hạn nhất định, sẽ phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời thay thế nó. Đây là cơ chế quy định sự thay đổi về chất của đối tượng, sự chuyển hóa về chất của một đối tượng thành đối tượng khác.
Quy luật này và các quy luật khác của phép biện chứng, như Mác và Ăngghen đã xác nhận, lần đầu tiên do Hegel (Hêghen) phát minh ra, và được trình bày dưới lớp vỏ duy tâm. Ăngghen viết, sai lầm của Hegel (Hêghen) “là ở chỗ ông không rút ra những quy luật ấy từ trong giới tự nhiên và lịch sử mà lại đem gán những quy luật với tư cách là những quy luật của tư duy ấy từ trên xuống cho giới tự nhiên và lịch sử. Kết quả của việc làm đó là toàn bộ một cấu tạo gò ép…dù muốn hay không, thế giới cũng phải phù hợp với một hệ thống logic, mà bản thân hệ thống này chẳng qua chỉ là sản phẩm của một giai đoạn phát triển nhất định của tư duy loài người”.
Thay vào đó, Ăngghen đã phát biểu quy luật này như sau: “…trong giới tự nhiên, thì những sự biến đổi về chất – xảy ra một cách xác định chặt chẽ đối với từng trường hợp cá biệt – chỉ có thể có được do thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay vận động (hay là năng lượng như người ta thường nói)”.
Những thay đổi về chất không thể diễn ra thiếu sự thay đổi về lượng. Nhưng cả chất, đến lượt mình, cũng ảnh hưởng đến lượng, đến sự thay đổi của lượng. Giữa những biến đổi về lượng và chất luôn có sự tương tác, và phát triển chính là sự liên hệ và quy định lẫn nhau của những biến đổi chất lẫn những biến đổi lượng, như là những chuyển hóa thường xuyên của cái này thành cái kia và ngược lại. Những chuyển hóa đó diễn ra ở những điểm cao trào xác định, với sự phá vỡ độ. Thay thế cho độ này sẽ là độ khác thông qua “bước nhảy”.
Bước nhảy là hình thức chuyển hóa phổ biến từ một chất này thành chất khác
Khác với những thay đổi liên tục về lượng, những thay đổi về chất luôn diễn ra dưới dạng ngắt quãng tính liên tục. Bước nhảy là điểm chuyển tiếp, mà ở đó sự thay đổi dần dần về lượng bị đứt quãng hẳn để diễn ra sự chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, tức là chuyển từ chất này sang chất khác. Thiếu bước nhảy, thì không thể có phát triển. Lênin nhấn mạnh: “Tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả”. “Phân biệt bằng cách nào một sự chuyển hóa biện chứng với một sự chuyển hóa không biện chứng? Bằng bước nhảy vọt. Bằng tính mâu thuẫn. Bằng sự gián đoạn của tính tiệm tiến. Bằng tính thống nhất (đồng nhất) của tồn tại và không tồn tại”.
Có hai kiểu bước nhảy chính: 1) dạng bùng nổ khi chất của đối tượng bị thay thế lập tức, hoàn toàn; 2) dạng tích lũy dần dần các yếu tố của chất cũ.
Khi xem xét bước nhảy dần dần cần chú ý hai điểm. Thứ nhất, nó không là sự biến đổi chậm chạp, ở đây không nói về tốc độ của bước nhảy, mà về cơ chế của nó: chất không bị thay thế ngay lập tức, mà theo từng phần. Thứ hai, tính tiệm tiến của những thay đổi về chất khác với tính tiệm tiến về lượng. Những thay đổi dần dần về lượng diễn ra liên tục, đều đặn trong khuôn khổ chất cũ. Bước nhảy dần dần vẫn là sự chuyển hóa chất này thành chất khác, là sự gián đoạn của tính liên tục, là sự chuyển hướng quyết định, là bước ngoặt trong sự phát triển.
Quá trình biến đổi lượng và chất ở các đối tượng có độ sâu và ý nghĩa khác nhau. Trên cơ sở đó có thể chia những quá trình đó ra thành cách mạng và tiến hóa.
Cách mạng là sự phá bỏ chất cơ bản, là sự cải biến chất đến tận gốc rễ (bao gồm cả sự cải biến tức thời, mang tính bùng nổ, lẫn sự cải biến dần dần). Tiến hóa là sự biến đổi chưa dẫn đến phá bỏ chất cơ bản của đối tượng. Tiến hóa bao gồm cả những thay đổi về lượng lẫn những chất không cơ bản.
Như vậy, cách mạng là khái niệm có ngoại diên hẹp hơn so với bước nhảy. Bước nhảy là mọi sự biến đổi của đối tượng về chất, cách mạng là sự thay đổi hẳn chất cơ bản. Nhưng chỉ những biến đổi chất cơ bản quy định sự vận động tiến bộ, chuyển từ những nấc thang phát triển thấp lên cao hơn mới là cách mạng. Còn nếu kết quả của những thay đổi cơ bản về chất mà lại gây ra bước nhảy thụt lùi, tức là vận động từ cao xuống thấp thì đó không phải là cách mạng mà là phản cách mạng. Các khái niệm này thường chỉ được áp dụng vào xã hội.
Biện chứng giữa chất và lượng đòi hỏi hoạt động thực tiễn cần dựa trên tri thức về mối liên hệ lượng – chất, dựa trên hiểu biết về vị trí, vai trò và ý nghĩa của từng hình thức biến đổi trong sự phát triển của xã hội, để kịp thời chuyển từ biến đổi này sang biến đổi khác. Xuất phát từ những đặc điểm của các quá trình tiến hóa và cách mạng ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, cần xem xét mối liên hệ biện chứng giữa tiến hóa và cách mạng. Đây là một trong những nguyên tắc phương pháp luận của việc xây dựng chiến lược và sách lược của các đảng cộng sản nhằm cách mạng hóa xã hội, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại cánh hữu và chủ nghĩa phiêu lưu “tả khuynh”.
Vì cả thay đổi về chất cũng dẫn đến thay đổi về lượng, nên để đạt được những chỉ số cần thiết về lượng, thì cần làm thay đổi không chỉ những đặc trưng về lượng của đối tượng, mà còn phải cải biến chất của chúng. Mỗi đối tượng đều có nhiều chất, và ở từng mối liên hệ lại nổi lên hàng đầu những chất khác nhau, nên trong nhận thức cần làm rõ chất cơ bản của đối tượng, khảo sát nó trong từng mối liên hệ. Đây cũng là một yêu cầu của nguyên tắc toàn diện – nguyên tắc quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật.


3.3. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập


Các mặt đối lập là những mặt có chiều hướng biến đổi trái ngược nhau; sự tương tác giữa các mặt đó tạo thành sự đấu tranh giữa chúng – một khía cạnh của mâu thuẫn. Cái đơn nhất và cái chung trong các đối tượng là các mặt đối lập, vì chúng trái ngược nhau: cái đơn nhất tất không lặp lại, cái chung tất lặp lại. Nội dung và hình thức cũng là những mặt đối lập: tính thay đổi liên tục, linh động là đặc trưng của nội dung, còn tính bền vững, ổn định tương đối lại là đặc trưng của hình thức.
Vẫn là các xu hướng, đối lập nhau và, như vậy là loại trừ nhau, nhưng các mặt đối lập lại không tách rời và thủ tiêu lẫn nhau, mà tồn tại cùng nhau, và cùng nằm trong mối liên hệ hữu cơ – thâm nhập, giả định nhau, tức là thống nhất với nhau. Đây là khía cạnh thứ hai của mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn là sự cùng tồn tại của đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập trong một đối tượng.
Thực vậy, cái đơn nhất không tồn tại tự thân, tách biệt với cái chung, mà tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, thống nhất với cái chung; không có những hiện tượng phi hình thức hoặc những hình thức phi nội dung, mỗi hình thức đều mang nội dung, mọi nội dung đều ẩn tàng trong hình thức nào đó, tức nội dung và hình thức luôn tồn tại trong sự thống nhất, liên hệ không tách rời. Như vậy, sự thống nhất các mặt đối lập trước hết đòi hỏi chúng tồn tại cùng nhau, không thể cái này thiếu cái kia. Bên cạnh đó, sự thống nhất còn biểu thị sự trùng hợp các mặt đối lập ở những thời điểm hay xu hướng xác định. Một khi các mặt đối lập đặc trưng cho cùng một đối tượng, cùng một bản chất, chúng tất phải có những điểm chung, trùng nhau ở một số thuộc tính bản chất, nếu không thì sự tương tác của chúng không thể tạo ra mâu thuẫn biện chứng sống động làm cơ sở tồn tại của đối tượng.
Như vậy, sự thống nhất các mặt đối lập cũng là tồn tại tất yếu tương tự như sự đấu tranh của các mặt đối lập. Một trong những hình thức đồng nhất, trùng nhau giữa các mặt đối lập là sự tác động cân bằng. Trong sự phát triển của mâu thuẫn, nó xuất hiện khi bắt đầu có sự ngang bằng các lực lượng trái chiều. Trong xã hội tình hình như thế thường được gọi là sự hòa hoãn giữa các lực lượng xã hội đối kháng nhau. Sự tác động cân bằng của các mặt đối lập chứng tỏ mâu thuẫn đã chín muồi và có dấu hiệu là sự gia tăng cuộc đấu tranh gay gắt giữa các thế lực đối lập. Sự cân bằng lực lượng không loại trừ đấu tranh, mà ngược lại còn làm cho nó trở nên bạo liệt hơn.
Mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Bất cứ mâu thuẫn nào cũng có sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; trong đó, thống nhất là tương đối, còn đấu tranh là tuyệt đối. Tính tương đối của thống nhất biểu hiện trước hết ở tính tạm thời, xuất hiện trong những điều kiện tương ứng, tồn tại một thời gian xác định rồi bị phá vỡ do sự phát triển của đấu tranh các mặt đối lập tạo thành nó và lại được thay bằng sự thống nhất mới, cứ như thế mãi đến vô cùng. Ngoài biểu hiện ở tính tạm thời, tính tương đối của sự thống nhất còn thể hiện ở sự tương đồng không hoàn toàn của chúng, ở sự thiếu đồng thuận hoàn toàn trong vận hành phát triển, cũng như ở tính chất tạm thời của tác động cân bằng của chúng.
Tính tuyệt đối của đấu tranh các mặt đối lập thể hiện ở sự có mặt của nó ở tất cả các thời kì tồn tại của thống nhất, là mắt khâu gắn kết giữa đồng nhất này với đồng nhất kế tiếp thay thế đồng nhất trước. Chỉ có đấu tranh mới làm mọi sự thống nhất cụ thể xuất hiện, thay đổi và phát triển và làm cho nó chuyển thành sự thống nhất mới.
Lênin gắn tính tương đối của thống nhất với đứng yên tương đối, tính tuyệt đối của đấu tranh các mặt đối lập với vận động tuyệt đối.
Tính phổ biến của mâu thuẫn
Một số nhà triết học phủ nhận tính mâu thuẫn của các đối tượng, của bản chất của chúng, cho rằng chúng không thể mâu thuẫn với chính mình. Kant tuyên bố “vật tự thân” không chứa bất kì mâu thuẫn nào, mâu thuẫn chỉ có trong tư duy, khi nó cố nhận thức “vật tự thân” vốn không thể biết, và điều đó chỉ chứng tỏ về sự bất lực của lí tính con người, về khả năng con người chỉ nhận thức được hiện tượng. Một số nhà triết học hiện đại cũng khẳng định mâu thuẫn chỉ có trong tư duy, còn đối tượng do không liên quan đến tư tưởng, nên nó luôn đồng nhất với chính mình, không thể tự mâu thuẫn, bởi nó không nói, không nghĩ gì cả.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không mang phép biện chứng chủ quan áp cho thế giới khách quan, không suy ra từ nó biện chứng khách quan mà giải thích biện chứng chủ quan từ biện chứng khách quan, xét các quy luật của tư duy như là sự phản ánh các quy luật biện chứng phổ biến của hiện thực khách quan. Tư duy cũng vốn có những mâu thuẫn không mang tính logic, mà thực chất là sự phản ánh các mâu thuẫn khách quan. Như vậy, quy luật mâu thuẫn là quy luật cơ bản của hiện thực khách quan và của tư duy nhận thức.
Nguồn gốc của mâu thuẫn
Chỉ khi đã được định hình hoàn toàn, đã chín muồi thì mới có mâu thuẫn theo nghĩa là sự thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập. Còn lúc đầu mâu thuẫn nảy sinh, phát triển từ những dạng tồn tại khác. Hình thức tồn tại phổ biến mà từ đó mâu thuẫn phát triển lên là khác biệt. Tuy nhiên, không phải mọi khác biệt đều là mầm mống của mâu thuẫn, mà chỉ những mặt khác biệt có xu hướng biến đổi và phát triển khác nhau hoặc những khác biệt liên quan đến các chiều hướng biến đổi của các mặt khác nhau, mới tạo thành quan hệ mâu thuẫn, mới có khả năng chuyển thành sự đối lập, tức là giai đoạn tồn tại đầu tiên của mâu thuẫn.
Các giai đoạn phát triển của mâu thuẫn
Bắt đầu từ sự khác biệt không bản chất, mâu thuẫn sau đó chuyển sang giai đoạn khác biệt bản chất. Những khác biệt bản chất trong những điều kiện phù hợp đều phát triển thành sự đối lập. Tiếp tục phát triển, chúng chuyển thành các thái cực xung đột với nhau trong một mâu thuẫn, “chuyển hóa vào nhau”, và bằng cách đó đòi hỏi được giải quyết. Sau sự giải quyết mâu thuẫn, đối tượng chuyển sang trạng thái chất mới với các mâu thuẫn mới.
Ví dụ, mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản đã nảy sinh từ thời hợp tác giản đơn, sản xuất công xưởng và tồn tại ở đó lúc đầu dưới dạng khác biệt không bản chất, giữa một bên, là thợ cả, và bên kia, là những thợ bạn và người học việc. Trên thực tế, người học việc, khi trải qua thời gian học nhất định, có thể trở thành thợ bạn, còn thợ bạn, sau khi tích lũy được kinh nghiệm nhất định, có thể trở thành thợ cả - chủ xưởng. Nhưng trong quá trình phát triển sản xuất công xưởng trình tự quan hệ đó giữa thợ cả với thợ bạn và người học việc đã bị thay thế bởi trình tự mới, theo đó người học và thợ bạn không thể tự dưng thành thợ cả, mà luôn dừng lại ở địa vị của người phải phục tùng, của người làm thuê. Sự khác biệt không bản chất giữa thợ cả, thợ bạn và người học việc giờ đây chuyển thành sự khác biệt bản chất. Tiếp theo với sự thay thế sản xuất công xưởng bằng công trường thủ công, quan hệ đó đã chuyển từ sự thay thế sản xuất công xưởng bằng công trường thủ công, quan hệ đó đã chuyển từ sự khác biệt bản chất sang sự đối lập. Nếu trước đó, trong công xưởng, chủ xưởng còn đích thân làm việc cùng thợ bạn và người học việc, thì ở công trường thủ công chủ không trực tiếp tham gia sản xuất nữa mà đã sống trên lao động của công nhân làm thuê.
Lợi ích của người chủ và công nhân làm thuê đã trực tiếp đối lập nhau. Sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển, thì mâu thuẫn đó càng gia tăng gay gắt và đạt tới điểm chín muồi, đòi hỏi được giải quyết thông qua cách mạng vô sản. Sau cách mạng, vô sản từ giai cấp bị áp bức trở thành giai cấp nắm quyền, còn tư sản bị loại khỏi quyền lực và chuyển sang vị thế giai cấp phục tùng. Kết quả là thủ tiêu trạng thái xã hội cũ, hình thành trạng thái mới, và cùng với nó là những mâu thuẫn mới. Như vậy, mâu thuẫn không hề bất động, mà luôn vận động, chuyển từ hình thức thấp lên các hình thức cao, và ngược lại. Trong quá trình đó các mặt đối lập chuyển hóa vào nhau, trở thành đông nhất, còn đối tượng với các mặt đối lập đó chuyển sang trạng thái mới.
Sự đồng nhất các mặt đối lập biểu hiện đầy đủ nhất ở thời điểm chúng chuyển hóa vào nhau. Thời điểm này trong đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa đặc biệt, vì nó kết thúc bằng sự giải quyết mâu thuẫn và chuyển đối tượng sang trạng thái chất mới. Đó cũng là điểm nút của phát triển. Tính đến tầm quan trọng của thời điểm đó trong sự phát triển của mâu thuẫn, Lênin định nghĩa “Phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, - trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau – tại sao lí trí con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động, có điều kiện, năng động, chuyển hóa lẫn nhau”.
Mâu thuẫn – nguồn gốc của vận động và phát triển. Sự thừa nhận mâu thuẫn, thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập là điều kiện tồn tại chung của vật chất, là quy luật phổ biến của hiện thực cho phép chủ nghĩa duy vật biện chứng coi mâu thẫu, sự thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập trong đối tượng chính là nguồn gốc của vận động, phát triển. Tư tưởng về mâu thuẫn như là nguồn gốc của vận động dưới dạng chung nhất đã được Heraclitus phát hiện ra và đã được Hegel (Hêghen) phát triển lên tầm phổ quát theo cách nhìn duy tâm khách quan. Sự luận chứng khoa học và sự phát triển luận điểm đó trên cơ sở duy vật mới đã được thực hiện bởi Mác, Ăngghen và tiếp sau đó là Lênin. Theo Ăngghen, vận động diễn ra “thông qua những mặt đối lập…thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng…đã quy định sự sống của giới tự nhiên”. Lênin nhấn mạnh: sự phát triển là một cuộc “đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Sự tác động qua lại giữa các mặt, các xu hướng đối lập quy định những biến đổi thường xuyên giữa các mặt hay các đối tượng với nhau. Chẳng hạn, sự tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùng vốn là những mặt đối lập của đời sống xã hội quyết định sự biến đổi thường xuyên trong chúng và ở các lĩnh vực xã hội khác. Trong sản xuất của cải vật chất, con người tự hoàn thiện, và đồng thời cũng thay đổi các nhu cầu của họ. Những nhu cầu mới xuất hiện đặt ra trước sản xuất những nhiệm vụ mới. Muốn giải quyết chúng, sản xuất tất phải phát triển, và trong tiến trình đó con người cũng hoàn thiện theo, cứ như vậy mãi mãi. Theo đà tích lũy những thay đổi trong sản xuất, theo đà tiến bộ của lực lượng sản xuất, chúng ngày một vượt lên các quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất trở nên kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, chúng buộc quan hệ sản xuất phải biến đổi. Đến lượt mình, sự thay đổi quan hệ sản xuất lại thúc đẩy các biến đổi tương ứng trong các cơ quan quyền lực, chính trị, pháp quyền, đạo đức… tức là ở kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Tất cả đều chứng tỏ rằng, đấu tranh giữa các mặt đối lập tất yếu gây ra các biến đổi tương ứng ở chúng và ở những mặt khác có liên quan, đồng thời quy định cả sự phát triển, chuyển hóa của chúng thành trạng thái cao hơn về chất. Do vậy, đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc và động lực của mọi vận động và phát triển.
Các loại mâu thuẫn và ý nghĩa của chúng đối với thực tiễn
Mỗi đối tượng đều có nhiều mâu thuẫn, và có thể phân chia chúng thành mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, bản chất và không bản chất, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
Sự tương tác giữa các mặt, các xu hướng đối lập của cùng một đối tượng tạo thành mâu thuẫn bên trong. Sự tương tác giữa các mặt hay xu hướng đối lập thuộc về các đối tượng khác nhau là mâu thuẫn bên ngoài. Những mâu thuẫn này có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển của đối tượng. Các mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định sự phát triển, bởi lẽ chính chúng quy định sự tự vận động của đối tượng, chính sự phát triển và giải quyết chúng quy định sự tự vận động của đối tượng, chính sự phát triển và giải quyết chúng làm chuyển hóa đối tượng thành đối tượng khác, hoặc chuyển nó lên một giai đoạn phát triển mới. Còn ảnh hưởng của mâu thuẫn bên ngoài luôn bị khúc xạ qua các mâu thuẫn bên trong, và ý nghĩa cụ thể của chúng phụ thuộc vào sự phù hợp đến đâu với các mâu thuẫn bên trong của đối tượng.
Mâu thuẫn bản chất là tương tác giữa các mặt, các xu hướng đối lập trong bản chất của đối tượng, như vậy mâu thuẫn bản chất bao giờ cũng là mâu thuẫn bên trong. Còn mâu thuẫn không bản chất là tương tác giữa các mặt, các xu hướng đối lập thuộc về các mối liên hệ ngẫu nhiên. Vai trò quyết định sự phát triển đối tượng thuộc về mâu thuẫn bản chất. Vì mâu thuẫn bản chất xuất phát từ bản chất của đối tượng, nên sự phát triển và giải quyết nó nhất định đụng chạm đến bản chất của đối tượng, nhất thiết gây ra trong nó các biến đổi. Còn những mâu thuẫn không bản chất liên quan đến những liên hệ ngẫu nhiên và do vậy sự phát triển và giải quyết chúng ít đụng chạm đến bản chất đối tượng. Vì thế, chúng ít có vai trò trong sự phát triển.
Các mâu thuẫn bản chất lại được chia thành mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản. Loại thứ nhất là những mâu thuẫn xác định trạng thái và sự phát triển của tất cả các mặt bản chất của đối tượng và thực hiện vai trò đó ở tất cả các thời kì tồn tại và phát triển của nó. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lao động với hình thức chiếm hữu tư nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sự tương tác giữa đồng hóa và dị hóa trong các cơ thể sống, giữa phân tích và tổng hợp trong hoạt động nhận thức, đều là những mâu thuẫn cơ bản. Loại thứ hai là những mâu thuẫn chỉ có ở một mặt của đối tượng, quy định sự vận hành và phát triển ở riêng một lĩnh của nó.
Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản tác động ở tất cả các thời kì tồn tại và phát triển của đối tượng, còn có mâu thuẫn chủ yếu cũng quyết định tất cả các mặt khác của đối tượng, và ghi dấu ấn lên chúng, nhưng chỉ tác động ở một giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn chủ yếu liên hệ hữu cơ với mâu thuẫn cơ bản và thường là một mặt, một bộ phận hợp thành, hay là hình thức biểu hiện cụ thể của nó. Sự phát triển tiếp theo của đối tượng, bước chuyển của nó sang giai đoạn tồn tại kế tiếp phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Ví dụ về mâu thuẫn chủ yếu nổi lên hàng đầu ở Việt Nam hiện nay là mâu thuẫn giữa các đòi hỏi đổi mới, sáng tạo với thói bảo thủ, trì trệ, những lợi ích nhóm. Mâu thuẫn đó, nói riêng, biểu hiện ở sự thiếu tương thích giữa tính tích cực ngày càng dâng cao của quần chúng với lề lối quản lí còn nặng tính quan liêu ở các lĩnh vực xã hội, những ý đồ kìm hãm đổi mới.
Tất cả các loại mâu thuẫn xét ở trên đều là phổ biến. Riêng trong xã hội, nếu tính đến đặc thù sự biểu hiện và giải quyết lại có thể chia các mâu thuẫn ở đây ra thành đối kháng và không đối kháng. Đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, các nhóm xã hội có lợi ích đối lập nhau. Còn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp có những lợi ích chung trong những vấn đề cơ bản của đời sống và có những lợi ích khác hay đối lập nhau ở những vấn đề riêng, không cơ bản.
Đối với mâu thuẫn đối kháng, sự giải quyết chúng cũng làm biến mất, phá vỡ sự thống nhất, trạng thái chất cũ. Chẳng hạn, sự giải quyết mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô làm tiêu vong luôn chế độ chiếm hữu nô lệ…Mâu thuẫn không đối kháng không có đặc điểm đó. Sau khi giải quyết, sự thống nhất, trạng thái chất cũ, không chỉ không bị thủ thiêu, mà ngược lại còn được củng cố. Ví dụ, mỗi khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chủ nghĩa xã hội được giải quyết, thì phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa không bị thủ tiêu, mà còn được củng cố, hoàn thiện hơn…
Các mâu thuẫn đối kháng thường có xu hướng gay gắt thêm, chuyển hóa các mặt đối lập thành các thái cực. Xu hướng đó bị quy định bởi chính bản chất của các mâu thuẫn, bởi tính không thể dung hòa các lợi ích giai cấp. Trái lại, mâu thuẫn không đối kháng không chứa xu hướng làm gay gắt thêm, bởi lẽ cơ sở của nó là sự thống nhất các lợi ích cơ bản. Vì vậy, những nhóm xã hội là những mặt của mâu thuẫn không đối kháng đều tha thiết quan tâm khắc phục nó nhằm duy trì sự phát triển tiếp của xã hội. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mâu thuẫn không đối kháng luôn không trở nên gay gắt. Nếu không có biện pháp giải quyết kịp thời, thì các mặt của nó có thể chuyển sang trạng thái xung đột gay gắt.
2c4. Quy luật phủ định của phủ định
Đặc thù của phủ định biện chứng
Chủ thể nhận thức dõi theo sự phát triển của các đối tượng, vạch ra những mâu thuẫn của chúng và nhận thấy, phát triển diễn ra thông qua sự phủ định trạng thái chất này bằng các trạng thái khác, giữ lại tất cả yếu tố tích cực từ trạng thái bị phủ định và lặp lại cái đã qua trên cơ sở mới cao hơn.
Phủ định biện chứng là phủ định gắn liền với sự phát triển. Đó là quá trình khách quan thủ tiêu một trạng thái chất này để định hình trạng thái chất mới, và được quy định bởi cuộc đấu tranh của các mặt đối lập bên trong. Dấu hiệu quan trọng nữa của phủ định biện chứng là, nó gắn kết giữa cái thấp và cái cao. Nó thực hiện chức năng đó do nó không chỉ là sự thủ tiêu, phá hủy một trạng thái chất cũ, mà còn có sự kế thừa để tạo ra trạng thái chất mới.
Ví dụ, trong quá trình phủ định một số sinh thể bởi những sinh thể khác hoàn thiện hơn, thì sinh thể mới vẫn bảo toàn và phát triển tiếp mọi yếu tố tích cực mà sự phát triển của sinh thể trước đã đạt được. Trong khi phủ định một hình thái kinh tế - xã hội này bởi hình thái khác thì lực lượng sản xuất do các thế hệ trước tạo ra không hề bị xóa bỏ. Ngược lại, vì là tiền đề cho sự xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới, nên trong khuôn khổ hình thái mới chúng lại có địa bàn phát triển tiếp theo rộng hơn.
Như vậy, mối liên hệ phổ biến giữa cái thấp và cái cao bằng cách lưu giữ và phát triển tiếp trong đối tượng mới nội dung tích cực của đối tượng bị phủ định, là đặc thù của phủ định biện chứng. Cái mới chứa đựng cái bị phủ định dưới dạng vượt bỏ. Phủ định biện chứng không phải là sự can thiệp từ bên ngoài vào đối tượng, mà là hình thức triển khai bên trong của nó. Đó là kết quả tương tác giữa những xu hướng mâu thuẫn bản chất bên trong nó không chỉ làm gián đoạn sự tồn tại của chất, mà chất bị phủ định còn được gắn kết với chất đang nảy sinh. Nhờ đó cái cũ không bị thủ tiêu sạch trơn, mà còn phát triển thêm – phủ định cùng với sự giữ lại cái tích cực.
Lênin đã vạch ra bản chất đặc thù của phủ định biện chứng như sau: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng – dĩ nhiên, phép biện chứng bao hàm trong nó nhân tố phủ định, và thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của nó – không, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định, tức là…không có một sự chiết trung nào”.
Phủ định là quá trình khách quan, là sự biến đổi hiện thực, là sự cải biến về chất đối tượng này thành đối tượng khác, chứ không phải kết quả giải quyết chủ quan. Ăngghen nhấn mạnh: “Sự phủ định chân chính – phủ định tự nhiên, phủ định lịch sử và phủ định biện chứng – đúng là động lực (…) của mọi sự phát triển: (…) – Sự phủ định không có kết quả là sự phủ định thuần túy chủ quan, cá nhân, nó không phải là một giai đoạn phát triển của bản thân sự vật, mà là một ý kiến từ ngoài áp đặt vào”. Ở một chỗ khác Ăngghen viết, phủ định của phủ định “là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy…”.
Bản chất của quy luật phủ định của phủ định. Trong sự phủ định biện chứng đối tượng hay chất này bằng đối tượng hay chất khác luôn có thời điểm, khi đối tượng hay chất mới xuất hiện lặp lại giai đoạn nào đó đã qua. Sự nhắc lại đó không phải là hoàn toàn, mà chỉ là phần nào, không phải theo thực chất, mà đúng ra chỉ theo hình thức. Đó không phải là sự quay ngược trở lại thực sự, mà chỉ dường như là quay trở lại. Cái mới xuất hiện lặp lại cái đã qua trên cơ sở mới, cao hơn.
Ví dụ, sự thiết lập sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa ở một nghĩa nào đó là sự nhắc lại hình thức sở hữu xã hội đã từng ở chế độ công xã nguyên thủy. Chỉ “dường như là sự nhắc lại” cái đã có trong xã hội nguyên thủy, vì sở hữu xã hội dưới chủ nghĩa xã hội khác căn bản với nó. Sự khác biệt đó do trình độ phát triển rất thấp của lực lượng sản xuất nguyên thủy đã không cho phép con người một mình tự tạo ra những phương tiện cần thiết cho cuộc sống. Còn sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa lại được xác lập khi lực lượng sản xuất đã phát triển vượt khỏi khuôn khổ của mọi hình thức sở hữu tư nhân và để tiếp tục phát triển chúng đòi hỏi phải được thay thế bằng sở hữu xã hội.
Sự lặp lại các giai đoạn đã qua trong sự phát triển của đối tượng cũng có nhiều kiểu. Đơn giản nhất là sự quay trở lại, sự nhắc lại trạng thái ban đầu được thực hiện qua hai lần phủ định. Ví dụ, sự sinh trưởng của các loại cây hạt ngũ cốc. Nhưng, sự nhắc lại cái đã qua có thể phải thực hiện qua nhiều lần phủ định hơn. Điều đó là do sự chuyển hóa đối tượng thành mặt đối lập diễn ra không phải ở từng lần phủ định. Thường trong tiến trình phủ định đối tượng bị chuyển hóa không phải ngay thành mặt đối lập của mình, mà thành cái khác, tức thành chất ban đầu nhưng chưa đối lập với nó. Còn sự chuyển hóa thành mặt đối lập chỉ được thực hiện ở điểm cuối cùng. Chẳng hạn, sự chuyển hóa chế độ tư hữu thành công hữu xã hội hội chủ nghĩa được thực hiện qua ba lần phủ định – sở hữu tư nhân chiếm hữu nô lệ bị phủ định bởi sở hữu tư nhân phong kiến; rồi sở hữu phong kiến bị phủ định bởi sở hữu tư nhân tư sản; sở hữu tư sản bị phủ định bởi sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, sự phủ định kép và cả sự phát triển theo ba bậc (khẳng định – phủ định lần thứ nhất – và phủ định lần thứ hai) không phải là điểm đặc thù của quy luật phủ định của phủ định, mà nhắc lại cái đã qua trên cơ sở mới, sự quay trở dường như về cái cũ mới là điểm đặc thù, và cũng là quy luật phổ biến của sự phát triển. Do vậy, phát triển không thể diễn ra theo đường thẳng, mà phải theo đường xoáy trôn ốc.
Liên hệ với hai quy luật trước, người ta thấy khó phân biệt “bước nhảy”, “giải quyết mâu thuẫn” và “phủ định biện chứng”. Đó là do ba khái niệm này đều liên quan đến một quá trình biến hóa đối tượng này thành đối tượng khác nhưng chúng phản ánh các mặt khác nhau trong quá trình đó. Khái niệm “giải quyết mâu thuẫn” phản ánh việc biến chuyển của một đối tượng thành đối tượng khác diễn ra nhờ kết quả đấu tranh các mặt đối lập, bước chuyển của chúng vào nhau và thủ tiêu sự thống nhất mâu thuẫn cũ. Khái niệm “bước nhảy” thể hiện tính quy luật là, quá trình đó diễn ra bằng cách chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, cải biến chất cũ, sự gián đoạn của tính liên tục. Khái niệm “phủ định biện chứng” lại cho biết, sự cải biến đối tượng này thành đối tượng khác diễn ra bằng cách thủ tiêu trong đối tượng đó cái không còn tương thích với trạng thái và điều kiện tồn tại đang biến đổi, sự duy trì và tiếp tục phát triển ở đối tượng mới đang nảy sinh trên cơ sở phủ định đối tượng cũ những yếu tố tích cự phù hợp điều kiện và xu hướng phát triển mới.
Khái niệm giải quyết mâu thuẫn, trong khi ghi nhận sự thủ tiêu một trạng thái thống nhất mâu thuẫn, chủ yếu chú ý đến tính hữu hạn của tồn tại, còn khái niệm “phủ định biện chứng” vốn ghi nhận sự thủ tiêu đối tượng, lại chú ý hơn đến tính vô hạn của tồn tại. Khác với khái niệm “phủ định biện chứng” ghi nhận tính liên tục của tồn tại, điểm liên hệ giữa cái bị phủ định và cái phủ định, tính kế thừa trong sự phát triển.
 

Thẻ