Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong triết học

Triết học Mác-Lênin và các trường phái triết học khác đối lập về nguyên tắc trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, luận giải mối quan hệ khách quan và chủ quan trong thực tiễn của con người. Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ cơ bản trên đây luôn có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho các chủ thể, một mặt tránh được chủ nghĩa chủ quan, mặt khác biết cách phát huy tính năng động chủ quan trong thực tiễn.


 1. Khái niệm “khách quan” và “chủ quan”
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để luận giải cho con người mối quan hệ giữa họ (con người có ý thức) với thế giới có con người (thế giới vật chất). Trong tính hiện thực lịch sử của nó, con người không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới bởi thực tiễn. Thực tiễn của con người, một mặt do có sự tham gia hướng dẫn của ý thức, mặt khác do yêu cầu về tính hiệu quả quy định nên tất yếu phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan.
Phạm trù “khách quan” dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không phụ thuộc vào một chủ thể xác định, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên tác động đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của chủ thể đó.
Nói đến khách quan là nói đến tất cả những gì tồn tại độc lập, bên ngoài và không lệ thuộc vào chủ thể hoạt động. Khách quan bao gồm: Những điều kiện, khả năng và quy luật khách quan. Trong đó, quy luật khách quan luôn giữ vai trò quan trọng nhất. Triết học Mác-Lênin luôn xác định khách quan và chủ quan căn cứ theo những chủ thể nhất định trong mối quan hệ xác định với khách thể. Không phải mọi điều kiện, khả năng và quy luật khách quan bất kì, mà chỉ có những điều kiện, khả năng và quy luật khách quan nào hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên tác động đến các hoạt động của một chủ thể xác định mới được coi là thuộc phạm trù khách quan đối với hoạt động của chủ thể ấy. Chính vì thế, với những chủ thể khác nhau, quan hệ khác nhau, lĩnh vực hoạt động khác nhau thì phạm vi, tính chất cái khách quan không hoàn toàn như nhau. Phạm trù khách quan luôn được đặt trong mối quan hệ với phạm trù chủ quan.
Phạm trù “chủ quan” dùng để chỉ tất cả những gì cấu thành phẩm chất và năng lực của một chủ thể nhất định, phản ánh vai trò của chủ thể ấy đối với những hoàn cảnh hiện thực khách quan trong hoạt động nhận thức và cải tạo khách thể.
Chủ quan, trước hết bao gồm tất cả những gì cấu thành và phản ánh trình độ phát triển về phẩm chất và năng lực của một chủ thể nhất định. Theo đó, phải kể đến phẩm chất tư duy, trình độ hiểu biết, đến tình cảm, ý chí, nguyện vọng và thể chất của chủ thể. Nói đến chủ quan là nói đến sức mạnh hiện thực bên trong của chủ thể. Đến lượt nó, sức mạnh ấy lại luôn được biểu hiện ra ở năng lực tổ chức hoạt động (nhận thức và thực tiễn) của chủ thể mà tiêu thức cơ bản, quyết định để đánh giá năng lực ấy là sự phù hợp giữa hoạt động của chủ thể với điều kiện, khả năng và quy luật khách quan.
Như vậy, phạm trù khách quan và chủ quan không đồng nhất với phạm trù vật chất và ý thức. Bởi vì, phạm trù vật chất và ý thức dùng để khái quát bản chất và mối quan hệ giữa hai hiện tượng chung nhất của thế giới, từ đó để xác định một thế giới quan nhất định - duy vật hoặc duy tâm. Trong khi đó, phạm trù khách quan và chủ quan dùng để khái quát bản chất mối quan hệ giữa thế giới bên ngoài hiện thực với sức mạnh bên trong của một chủ thể xác định (một người, một tập thể, một tập đoàn, một giai cấp...) trong toàn bộ hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới đó. Do đó, khách quan và chủ quan chỉ là nói trong những quan hệ xác định, ngoài quan hệ đó ra, sự phân biệt khách quan, chủ quan chỉ có ý nghĩa tương đối. Có hiện tượng trong quan hệ này thì thuộc về khách quan, nhưng trong quan hệ khác lại thuộc phạm trù chủ quan và ngược lại. Tuy nhiên, nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác-Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vẫn là cơ sở khoa học để vận dụng vào việc giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ quan.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan
Khách quan và chủ quan là hai mặt, hai yếu tố không thể tách rời trong mọi hoạt động của mỗi chủ thể. Nhưng tính chất của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới lại luôn đòi hỏi chủ thể phải giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan sao cho phù hợp với vai trò, vị trí thực sự của con người trong thế giới - nghĩa là phải phù hợp với lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Trong mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan thì suy đến cùng, khách quan bao giờ cùng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định chủ quan. Bởi vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập không lệ thuộc vào chủ thể, luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể. Cả lí luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu chỉ bằng nỗ lực chủ quan của mình, con người chưa và không bao giờ xóa bỏ được bất cứ một điều kiện, khả năng hay quy luật khách quan nào. Trái lại, chính những điều kiện khách quan hợp thành hoàn cảnh, môi trường sống và hoạt động hiện thực của con người và chính việc con người nhận thức được sự vận động, biến đổi của những khả năng và quy luật khách quan là điểm xuất phát, là tiền đề làm nảy sinh ở họ những dự kiến, những kế hoạch, hình thành nên trong họ ý chí, quyết tâm hành động cải biến hiện thực vì nhu cầu lợi ích của mình.
Do bản chất năng động vốn có của mình quy định nên con người luôn vươn tới tự do trong mọi hoạt động. Nhưng con người chỉ được tự do hành động trong chừng mực họ nhận thức được ngày càng sâu sắc hơn các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan. Không phải thế giới khách quan khuôn theo ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người, mà trái lại, ý chí, nguyện vọng của con người chỉ đúng khi nó phản ánh được sự vận động biến đổi của những điều kiện, khả năng và quy luật vốn có của thế giới khách quan. Nói cách khác, khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của chủ quan.
Giữa các chủ thể có sự khác nhau là ở tính năng động chủ quan trong nhận thức và hành động. Nhưng giới hạn của tính năng động ấy cũng do khách quan quy định. Chủ thể không thể tùy thích đặt ra cho mình những nhiệm vụ, không thể tự mình sáng tạo ra những mục tiêu, phương pháp khi mà quy luật khách quan không cho phép, khi mà điều kiện lịch sử chưa chín muồi. Nói cách khác, mọi hoạt động của con người chỉ là sự phản ánh và hiện thực hóa những nhu cầu đã chín muồi của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ mà con người phải giải quyết là những nhiệm vụ do lịch sử đề ra và quy định nội dung, biện pháp giải quyết. Chúng ta đạt được những thành công trong việc cải tạo hiện thực là do sự phản ánh đúng và hành động theo những quan hệ tất yếu của hiện thực chứ không phải là do những ảo tưởng chủ quan của mình. Tuy vậy, trong khi khẳng định khách quan là nhân tố có vai trò quyết định, triết học Mác-Lênin không những không phủ nhận mà còn đánh giá cao vai trò của tính năng động chủ quan.
Quan điểm trên đây của triết học Mác-Lênin xuất phát từ việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan thông qua thực tiễn, xem con người là một thực thể xã hội năng động và hoạt động bản chất của nó là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới, sáng tạo ra đời sống xã hội của chính mình. Chính vì vậy, mặc dù phạm trù chủ quan trước hết phản ánh phẩm chất và năng lực trí tuệ - tinh thần của chủ thể, nhưng vai trò thực sự của nó lại chỉ có thể được đánh giá qua toàn bộ hoạt động của con người so với thế giới khách quan.
Nói đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong hoạt động (nhận thức và thực tiễn) để cải biến và thống trị thế giới của họ. Con người, do bản chất xã hội của họ quy định, nên luôn có nhu cầu và khả năng tổ chức các hoạt động khám phá thế giới khách quan. Trên cơ sở đó, con người nâng cao tri thức, phát triển ý chí, tình cảm của mình theo hướng ngày càng phù hợp hơn với điều kiện, khả năng và quy luật khách quan của hiện thực. Cũng nhờ đó mà đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như chủ trương, biện pháp mà con người vạch ra ngày càng đúng đắn hơn, ít mang tính chất chủ quan duy ý chí hơn. Nói cách khác, đó cũng chính là quá trình nhân tố chủ quan của chủ thể ngày càng được khách quan hóa. Đồng thời, chính điều đó lại góp phần nâng cao quyền lực của con người trong việc làm biến đổi thế giới khách quan theo ý chí, nguyện vọng và nhu cầu của họ. Điều đó cũng có nghĩa con người ngày càng trở thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan, hay thế giới khách quan ngày càng bị chủ quan hóa bởi hoạt động cải biến của con người.
Vai trò đặc biệt trên đây của nhân tố chủ quan được thể hiện tập trung ở phương thức nó biến các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan vốn tồn tại và vận động dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo hướng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Thông thường, trong tự nhiên, các “xu hướng có thể” tự phát biến thành hiện thực khi đủ điều kiện cần thiết, nhưng trong xã hội quá trình đó lại phụ thuộc một cách quyết định vào vai trò của nhân tố chủ quan.
Mặc dù mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào những điều kiện khách quan nhất định, nhưng con người không thụ động chờ đợi sự chín muồi của điều kiện khách quan, mà trái lại, có thể dựa vào năng lực chủ quan của mình để phát hiện các điều kiện khách quan và dựa vào các điều kiện đó để tổ chức, xúc tiến tạo ra những điều kiện khách quan khác cần thiết cho những nhiệm vụ cụ thể của mình. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến trình biến khả năng thành hiện thực. Tương tự, trong một phạm vi, một sự vật hiện tượng cụ thể, tiến trình khách quan có thể có nhiều con đường, nhiều khả năng phát triển. Ở đây, vai trò của con người có thể dựa vào năng lực vốn có của mình để lựa chọn, tác động sao cho chỉ một con đường, một khả năng khách quan nào đó phù hợp nhất với tiến trình lịch sử cụ thể và nhu cầu của mình. Bằng cách đó, như thực tế lịch sử cho thấy, con người có thể đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình phát triển của sự vật mà vẫn bảo đảm tính lịch sử tự nhiên của nó. Cuối cùng, vai trò to lớn của nhân tố chủ quan còn thể hiện ở chỗ, mặc dù không xóa bỏ hoặc sáng tạo ra bất cứ quy luật khách quan nào, nhưng bằng năng lực chủ quan của mình, con người có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích của mình. Sở dĩ như vậy là vì tính tất yếu về sự tác động của quy luật khách quan không mâu thuẫn với tính phong phú về hình thức và trật tự tác động của nó trong những điều kiện cụ thể khác nhau; mà việc làm biến đổi những điều kiện này lại nằm trong khả năng thực tế của con người.
Tóm lại, “thế giới không thỏa mãn con người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình” . Nhưng hành động biến đổi thế giới của con người chỉ có hiệu quả khi nó được thực hiện bởi những công cụ, phương tiện vật chất và phù hợp với quy luật vốn có của thế giới vật chất, nghĩa là hành động ấy luôn là một thể thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn. Quá trình thực tiễn - nhận thức - thực tiễn là một quá trình vô tận với sự chuyển hóa không ngừng giữa khách quan và chủ quan theo hướng đứa con người trở thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan. Đó chính là quá trình biện chứng “khách quan hóa chủ quan và chủ quan hóa khách quan”, chống “khách quan chủ nghĩa” và chống “chủ quan duy ý chí”.
Ý nghĩa phương pháp luận đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Việc nghiên cứu mối quan hệ khách quan và chủ quan theo lập trường duy vật biện chứng có ý nghĩa chỉ đạo rất sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Khách quan là nhân tố giữ vai trò quyết định chủ quan nên trong nhận thức và thực tiễn phải nắm vững một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận khoa học là nguyên tắc khách quan. Phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan; đóng thời phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan trong nhận thức và thực tiễn.
Phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, định kiến, thiếu trung thực. Nhận thức đúng đắn khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện pháp phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến khách quan theo mục đích đặt ra.
Do vai trò chủ động của nhân tố chủ quan nên trong nhận thức và thực tiễn phải biết trên cơ sở tôn trọng khách quan để phát huy cao độ tính năng động chủ quan. Trên cơ sở “cái” khách quan đã được nhận thức để huy động, phát huy cao nhất mọi phẩm chất và năng lực của chủ thể vào việc nghiên cứu, phát hiện, lựa chọn ra con đường, những biện pháp, hình thức, bước đi, những công cụ và phương tiện phù hợp nhất, đạt hiệu quả cao nhất trong mọi hoạt động. Phát huy tính năng động chủ quan cũng đồng thời bao hàm việc phê phán, đấu tranh khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại, bó tay, phó mặc trước khó khăn của hiện thực cuộc sống.
Mặt khác, tôn trọng khách quan cũng đồng thời kiên quyết khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí - lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Cần khắc phục thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ trong các hoạt động của con người.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nắm vững quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ khách quan và chủ quan, vận dụng vào việc xác định đường lối, mục tiêu, phương hướng và phương pháp cách mạng; đồng thời cũng cho thấy, việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ này là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tòi với nhiều khó khăn và phức tạp.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, quyết tâm sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm để đưa cách mạng nước ta tiến lên. Đảng đã rút ra bài học: Mọi đường lối, chủ trơng của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững vừa cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa phải biết “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam; đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo. Đồng thời, cũng từ chính những sai lầm, thất bại trong thực tiễn cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, phải ra sức học tập lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để hành động theo quy luật khách quan, chống duy tâm, duy ý chí, nóng vội chủ quan, cũng như thái độ bảo thủ, tâm lí ỷ lại, thụ động, trì trệ.
Để tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước toàn diện trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển xã hội; nâng cao trình độ tri thức khoa học cho toàn dân và trình độ chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong điều kiện xã hội thông tin, văn minh trí tuệ hiện nay. Mặt khác, phải bồi dưỡng lí tưởng, niềm tin, nhiệt tình cách mạng cho quần chúng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên, cán bộ, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học, phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng.
Để khắc phục có hiệu quả bệnh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, trì trệ, thói quen ỷ lại, cần phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết, phải đổi mới tư duy lí luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lí luận; kết hợp đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.
 

Thẻ