Những nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội 

Mục lục:

  1. A. Sản xuất vật chất – nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội
  2. B. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử.
  3. C Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển trong cơ cấu tổng thể của đời sống xã hội 
  4. D. Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội

 

A. Sản xuất vật chất – nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội

Trên ý nghĩa bao quát nhất, khái niệm xã hội dùng để chỉ những cộng đồng người trong lịch sử; đó là những cộng đồng người có tổ chức nhằm thực hiện các mối quan hệ giữa con người với con người trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức, tôn giáo...
Hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên của nhân loại là cộng đồng thị tộc, bộ lạc với hình thức tổ chức cơ cấu xã hội giản dị nhất. Sự tiến hoá hơn nữa của lịch sử đã dẫn tới sự hình thành cơ cấu của cộng đồng bộ tộc và tiến dần lên hình thức xã hội có cơ cấu tổ chức cao hơn là hình thức tổ chức quốc gia - dân tộc. Ngày nay, do nhu cầu mới của lịch sử trong thời đại mới đã bắt đầu xuất hiện những hình thức tổ chức liên minh rộng lớn giữa các quốc gia - dân tộc thành các hình thức xã hội ở phạm vi khu vực và quốc tế.
Trong bất cứ hình thức tổ chức của cộng đồng xã hội nào, dù đơn giản nhất cũng có sự thống nhất của ba quá trình sản xuất: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sản xuất và tái sản xuất ra con người cùng những quan hệ xã hội của nó. Sản xuất vật chất là quá trình liên kết con người dưới các hình thức tổ chức xã hội nhất định nhằm thực hiện mục đích cải biến môi trường tự nhiên, làm biến đổi các đối tượng vật chất tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Sản xuất tinh thần là quá trình hoạt động nhằm sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần trên tất cả các lĩnh vực của xã hội, từ những giá trị tri thức cho tới những giá trị văn hoá nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, triết học... Cùng với những quá trình sản xuất ấy là quá trình sản xuất và không ngừng tái sản xuất ra chính bản thân con người và các quan hệ xã hội của họ trên hai mặt tự nhiên và xã hội của con người. Ba loại hình sản xuất đó luôn luôn tồn tại trong tính quy định, chi phổi và làm biến đổi lẫn nhau tạo nên tính chất sống động của đời sống xã hội, trơng đó sản xuất vật chất giũ vai trò quyết định.
Tính quyết định của sản xuất vật chất đối với toàn bộ đời sống xã hội xuất phát từ tiền đề khách quan là: “người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” . Sự thật khách quan đó cũng cho thấy: tiền đề xuất phát để nghiên cứu về lịch sử con người và lịch sử nhân loại phải được bắt đầu từ việc nghiên cứu về hành vi lao động sản xuất vật chất của con người. Mác khẳng định: “Bản thản con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình” . Với ý nghĩa đó, có thể khẳng định phương thức đặc trưng cho sự sinh tồn và phát triển của con người là hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Phương thức ấy là cái phân biệt căn bản giữa con người và động vật, khiến cho nó trở thành con người và tự mình làm ra lịch sử của chính mình.
Lao động sản xuất vật chất là hoạt động của con người với mục đích cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên, cải biến giới tự nhiên. Hoạt động đó không thể là những hành vi độc lập của mỗi con người đơn lẻ mà nhất định phải trên cơ sở liên kết những cá nhân thành cộng đồng có tổ chức, tức thành những cộng đồng xã hội nhất định theo yêu cầu tất yếu của việc cải biến giới tự nhiên như thế nào, ở trình độ nào. Mác khẳng định: “Trong sản xuất người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có mối quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó” .
“Mối quan hệ nhất định với nhau” trong quá trình sản xuất ấy chính là những quan hệ sản xuất hay những quan hệ kinh tế của xã hội; tức những quan hệ liên kết giữa những con người nhằm thực hiện các lợi ích vật chất có được nhờ quá trình sản xuất vật chất đó. Trên cơ sở những quan hệ này, tất yếu làm nảy sinh tất cả những quan hệ xã hội khác giữa con người với con người trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo... Sự nảy sinh những quan hệ ấy, suy đến cùng chỉ là sự phản ánh nhu cầu tất yếu cần phải có để đảm bảo cho những quan hệ sản xuất có thể được xác lập và thực, thi, nhờ đó quá trình sản xuất vật chất, tức cải biến giới tự nhiên, mới có thể thực hiện được. Như vậy, những quan hệ sản xuất của xã hội không phải là những quan hệ mang tính chủ quan; tuỳ tiện mặc dù nó được thiết lập bởi chính con người, nó có thể mang những hình thức đạo đức; tập tục như trong xã hội nguyên thủy hay những hình thức pháp lí trong các xã hội được tổ chức theo hình thức nhà nước, mà là những quan hệ có cơ sở khách quan của nó, tức có tính vật chất của nó, từ nhu cầu khách quan của công việc sản xuất, từ trình độ kĩ thuật công nghệ thực tế trong mỗi điều kiện lịch sử của công việc sản xuất ấy.
Cách tiếp cận duy vật về xã hội của Mác đã cho thấy: sản xuất vật chất nhất định phải là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội, là cơ sở cuối cùng để giải thích mọi biến thiên của lịch sử; mọi sự biến đổi, phát triển của các quan hệ xã hội giữa con người với con người, của sự phát triển từ hình thức tổ chức xã hội này lên hình thức tổ chức xã hội cao hơn trong lịch sử nhân loại. Phương pháp luận duy vật của Mác trong việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử cho thấy: lịch sử tiến hoá văn minh của nhân loại có cơ sở quyết định từ lịch sử phát triển của trình độ văn minh trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội; do vậy cũng cần phải nghiên cứu trình độ phát triển nói chung của xã hội, trên mọi lĩnh vực của nó, từ trình độ phát triển thực tế của nền sản xuất vật chất ấy, mà suy đến cùng thì trình độ phát triển ấy lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất - tức là những cách thức mà xã hội sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi quá trình sản xuất vật chất đều được tiến hành theo những phương thức nhất định trên hai mặt - đó là phương thức kĩ thuật, công nghệ của quá trình sản xuất và phương thức tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất ấy; trong đó, phương thức tổ chức kinh tế phụ thuộc tất yếu vào trình độ phương thức kĩ thuật, công nghệ hiện có của xã hội. Như vậy, suy đến cùng thì chính trình độ phát triển của phương thức kĩ thuật, công nghệ nói riêng và trình độ phát triển nói chung của toàn bộ lực lượng sản xuất là nhân tổ quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội, và do đó nó cũng chính là nhân tố quyết định trình độ phát triển của toàn bộ đời sống xã hội trên tất cả các mặt khác nhau của nó.
Có thể nhận rõ sự khác nhau căn bản giữa phương thức sản xuất của xã hội nông nghiệp truyền thống (điển hình là phương thức sản xuất trong các xã hội phong kiến thời trung cổ) và phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại (tiêu biểu trong các xã hội tư bản đương đại). Trong phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống, phương thức tổ chức kinh tế thường theo quy mô nhỏ với cách thức hoạt động tự sản - tự tiêu, hay “tự cấp tự túc” mang tính chất quy trình khép kín của quá trình tái sản xuất giản đơn. Cách thức tổ chức kinh tế ấy dựa trên tính chất sở hữu tư nhân nhỏ đối với các tư liệu sản xuất. Các tư liệu sản xuất đó cũng như lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất căn bản đều ở trình độ thủ công, được tích luỹ bởi kinh nghiệm mang tính truyển thừa của những người lao động trong phạm vi tương đối hẹp. Ngược lại, với phương thức sản xuất đó, phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại mà tiẽn thân của nó là phương thức sản xuất công nghiệp truyền thống tư bản chủ nghĩa ra đời từ sau các cuộc cách mạng tư sản ở các nước Tây Âu (thế ki XVIII). Trong phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại, cách thức tổ chức kinh tế trong toàn xã hội (trong phạm vi một quốc gia hay giữa các quốc gia liên minh) là phương thức tổ chức kinh té thị trường hiện đại với sự tham gia là ba chủ thể kinh tế: tư nhân, các hộ gia đình và nhà nước. Cách thức tổ chức kinh tế đó dựa trên sự kết hợp của nhiều loại hình sở hữu các giá trị tư bản được vận hành trong các quá trình sản xuất của xã hội. Về phương diện kĩ thuật công nghệ của quá trình sản xuất, phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại căn bản dựa trên trình độ phát triển của kỹ thuật, công nghệ cao, công nghệ hiện đại trong quá trình sản xuất. Vì thế, phương thức sản xuất này cũng được gọi là “phương thức công nghiệp - thị trường hiện đại”, tức là sự thống nhất của hai mặt của phương thức sản xuất vật chất của các xã hội đã đạt được trình độ tiên tiến từ khoảng nửa cuối thế kỉ XX đến nay.
Tương ứng với quá trình chuyển từ phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống sang phương thức sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi và cách mạng của hàng loạt các quan hệ giữa con người với con người trên các lĩnh vực tổ chức chính trị, pháp luật, văn hoá, đạo đức, tôn giáo... Đúng như Mác nhận định: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta” .
Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất trong nền sản xuất vật chất, cũng do đó nó quyết định trình độ phát triển của toàn bộ đời sống xã hội và sự vận động phát triển của toàn bộ lịch sử nhân loại, Mác đã tiến hành phác hoạ lịch sử phát triển của xã hội loài người qua lịch sử phát triển, thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất từ trình độ tháp đến cao. Theo tư tưởng của Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (xuất bản năm 1859), thì về đại thể, có thể coi các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của các hình thái kinh tế - xã hội.
Khái niệm “phương thức sản xuất châu Á” là khái niệm được Mác sử dụng để chỉ một loại hình phương thức sản xuất đặc biệt mang tính quá độ từ phương thức sản xuất nguyên thủy lên phương thức sản xuất cao hơn đã tồn tại kéo dài trong lịch sử các xã hội thuộc phương Đông vùng châu Á mà hình thức tiêu biểu của nó là mô hình tổ chức “công xã nông thôn” ở Ấn Độ, trong đó tính chất “sở hữu kép” về ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội nông nghiệp dựa trên trình độ lao động thủ công chưa phát triển - được Mác coi là “chiếc chìa khoá” để nghiên cứu “những bí mật” của xã hội Ấn Độ nói riêng và các xã hội vùng phương Đông châu Á nói chung.

B. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử.


Bất cứ một quá trình sản xuất, vật chất nào cũng diễn ra với sự tồn tại “song trùng” của hai mối quan hệ cơ bản, đó là: mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với nhau. Khái niệm lực lượng sản xuất và khái niệm quan hệ sản xuất phản ánh hai mối quan hệ song trùng ấy, trong đó khái niệm lực lượng sản xuất phản ánh trình độ con người chinh phục giới tự nhiên trong quá trình sản xuất, còn khái niệm quan hệ sản xuất phản ánh sự liên kết giữa những con người theo yêu cầu khách quan của sự chinh phục giới tự nhiên ở một trình độ phát triển nhất định.
- Khái niệm “lực lượng sản xuất” phản ánh mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, biểu hiện trình độ con người chinh phục tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất. Đó là mối quan hệ vật chất giữa con người với giới tự nhiên. Mối quan hệ đó được thực hiện thông qua quá trình lao động sản xuất vật chất, con người cải biến giới tự nhiên bằng sức mạnh thực tiễn. Vì vậy xét về thực chất, khái niệm “lực lượng sản xuất” dùng để chỉ năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Năng lực đó được tạo ra trong đời sống hiện thực bằng sự kết hợp giữa sức lao động (sức lực vật chất và tinh thần - đặc biệt là yếu tố tri thức) của con người với những tư liệu sản xuất trong quá trình lao động của họ.
Do đó, có thể định nghĩa vắn tắt: Lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần của con người, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo mục đích của quá trình sản xuất vật chất.
Trình độ phát triển của năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người, tức trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau đây:
Một là, trình độ phát triển của các tư liệu sản xuất; trong đó, trình độ phát triển của công cụ lao động thể hiện tập trung trình độ phát triển của các tư liệu sản xuất.
Hai là, trình độ phát triển của năng lực lao động thực tế của con người, tức của sức lao động, bao gồm trong đó toàn bộ sức lực vật chất và sức lực tinh thần (kĩ năng, kinh nghiệm...) của người lao động.
Ba là, phương thức kết hợp các yếu tố trong quá trình sản xuất. Cùng một trình độ phát triển của tư liệu sản xuất và sức lao động của con người nhưng phương thức phân công hợp tác phối kết hợp khác nhau có thể tạo ra chất lượng, trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, do đó trong thực tế chúng cũng có giá trị hiện thực khác nhau, thể hiện trình độ nặng lực thực tiễn khác nhau trong quá trình sản xuất.
Trong các yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động (tức con người có khả năng lao động được tạo nên bởi các yếu tố vật chất và tinh thần của chính bản thân họ) thì nhân tố người lao động là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì, suy đến cùng thì trình độ phát triển của tư liệu sản xuất chỉ là kết tinh giá trị lao động của con người, là sản phẩm lao động của con người, phản ánh trình độ lao động của con người; đổng thời, giá trị thực tế tạo nên năng lực thực tiễn trong quá trình sản xuất phụ thuộc vào trình độ lao động thực tế của người lao động khi họ sử dụng nhũng tư liệu đó.
Nếu xem xét quá trình lao động sản xuất không phải với tư cách trực quan là quá trình lao động sản xuất đơn lẻ, riêng biệt của mỗi cá nhân độc lập mà là tổng thể quá trình lao động của một xã hội thì các yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động cần phải được phân tích là tổng thể kết hợp giữa các loại và trình độ phát triển của tư liệu sản xuất cũng như giữa các loại và trình độ phát triển của người lao động trong tính toàn thể xã hội của nó. Trong đó có sự kết hợp giữa các loại lao động phát triển ở những trình độ khác nhau (lao động trí óc và lao động chân tay, lao động trực tiếp và gián tiếp...). Cách hiểu đó mới có thể cho thấy sự phát triểr của lực lượng sản xuất của thời đại ngày nay.
Một trong những đặc điểm lớn của thời đại ngày nay là có sự phát triển hết sức nhanh chóng của các ngành khoa học tự nhiên gắn kết với các quá trình phát minh sáng chế kĩ thuật mới, từ đó làm xuất hiện và phát triển rất nhanh chóng của các ngành công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ... Các ngành công nghệ đó ngày càng đóng vai trò then chốt, trụ cột trong sự phát triển của lực lượng sản xuất ở các nước có nền công nghiệp hiện đại. Với sự phát triển đó, tất yếu đòi hỏi quá trình phát triển trình độ ngày càng cao của người lao động trong xã hội công nghiệp hiện đại. Xu hướng sử dụng trình độ lao động có đào tạo và được đào tạo ở trình độ chuyên môn cao và theo chiều sâu của sự chuyên môn hoá để có thể thích ứng với việc sử dụng sản phẩm kĩ thuật mới ngày càng được coi trọng, thay thế dần cho trình độ lao động căn bản dựa trên những kĩ năng kinh nghiệm lao động thông thường không cần trải qua quá trình đào tạo chuyên sâu. Những sự phát triển đó của lực lượng sản xuất trong xã hội công nghiệp hiện đại đã thể hiện khuynh hướng gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa hai quá trình sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, thể hiện khuynh hướng khoa học kĩ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà Mác đã dự báo từ thế kỉ XIX. Biểu hiện cao nhất của quá trình đó là sự ra đời và phát triển của các khu công nghệ cao, trong đó có sự liên kết chặt chẽ giữa những nhà sản xuất và những nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu khoa học, các trường đại học đào tạo nguổn nhân lực có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu phát triển của nền công nghiệp hiện đại.
Khuynh hướng phát triển của lực lượng sản xuất trong các xã hội công nghiệp hiện đại cũng tất yếu thúc đẩy tiến trình “xã hội hoá của lực lượng sản xuất mà biểu hiện tiêu biểu cho tiến trình đó là sự phụ thuộc tất yếu ngày càng tăng về mặt trình độ phát triển của kĩ thuật, công nghệ được sử dụng vào mỗi quá trình sản xuất công nghiệp. Sự tiến bộ về mặt kĩ thuật, công nghệ của ngành sản xuất này tất yếu đòi hỏi phải có sự phát triển tương ứng về mặt kĩ thuật, công nghệ của ngành khác, nhờ đó mới có thể tạo ra sản phẩm toàn vẹn của quá trình sản xuất. Cũng do đó, sự thay thế trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ này bằng một trình độ mới cao hơn giữa các ngành sản xuất diễn ra với một tốc độ và chu kì đổi mới hết sức nhanh chóng không chỉ trong phạm vi nền sản xuất của một quốc gia. Như vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở ngành này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của ngành khác, trong đó xét về tổng thể là mối quan hệ phụ thuộc về trình độ phát triển kĩ thuật - công nghệ trong lực lượng sản xuất thuộc cơ cấu giữa ba ngành công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ không chỉ trong phạm vi mỗi quốc gia riêng biệt.
- Khái niệm "quan hệ sản xuất ” dùng để khái quát mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của một xã hội nhất định.
Mỗi quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất chỉ có thể diễn ra được với sự kết hợp của tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con người, trong đó mối quan hệ về mặt kĩ thuật, công nghệ mà nhờ đó có thể trực tiếp làm biến đổi các đối tượng vật chất tự nhiên thuộc về “lực lượng sản xuất”, còn mối quan hệ về mặt xã hội giữa con người với con người trong quá trình đó thuộc về “quan hệ sản xuất”; trong đó, nội dung chính của nó là mối quan hệ kinh tế, mặc dù mối quan hệ kinh tế nào trong xã hội được tổ chức dưới hình thức nhà nước cũng cán có nội dung pháp lí để đảm bảo tính thực thi của nó vón thuộc về thượng tầng kiến trúc của xã hội. Mối quan hệ kinh tế là mối quan hệ liên kết giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất nhằm mục đích thực hiện lợi ích vật chất có được trong quá trình đó.
Từ sự phân tích trên, có thể định nghĩa vắn tắt: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người nảy sinh trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức - quản lí quá trình sản xuất và quan hệ phân phối kết quả của quá trình sản xuất ấy. Ba mặt đó của quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với nhau trong việc xác định các tư liệu sản xuất thuộc về ai với nội dung cơ bản là tập hợp của các quyền: chiếm hữu, sử dụng, mua bán, chuyển nhượng... Tập hợp các quyền đó có thể mang một hình thức pháp lí nhất định được bảo hộ bởi quyền lực quản lí của nhà nước hoặc theo thông lệ tập tục truyển thống trong các xã hội chưa có sự ra đời của bộ máy nhà nước.
Xét theo tính chất cơ bản của sở hữu, trong lịch sử nhân loại đã từng tồn tại hai loại quan hệ sở hữu, đó là sở hữu tư nhân và sở hữu cộng đồng xã hội về tư liệu sản xuất. Mỗi loại sở hữu đó lại có thể tồn tại với những hình thức phù hợp với mỗi điều kiện lịch sử - cụ thể.
Trong các quốc gia có sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại có sự tồn tại của nhiều loại hình sở hữu đan xen hỗn hợp tạo thành một hệ thống cơ cấu sở hữu thống nhất trong tính đa dạng của nó: sở hữu tư nhân, tư bản (quy mô lớn và nhỏ), sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp trong các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần...
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành quan hệ tổ chức - quản lí quá trình sản xuất và quan hệ phân phối kết quả của quá trình đó. Hai loại hình quan hệ này luôn có tác động trở lại quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Sự tác động đó có thể theo những chiều hướng khác nhau, tạo những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa nội dung vật chất và hình thức kinh tế của quá trình sản xuất; đó cũng là mối quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, trên cơ sở quyết định của lực lượng sản xuất, tạo thành nguốn gốc và động lực cơ bản của quá trình vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử. Đó cũng chính là nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” - quy luật cơ bản nhất của qúa trình phát triển xã hội.
Thứ nhất, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai phương diện cơ bản, tất yếu của mỗi phương thức sản xuất - mỗi quá trình sản xuất nhất định, do đó chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất của xã hội. Nói cách khác, mỗi phương thức sản xuất hay mỗi quá trình sản xuất không thể tiến hành được nếu như thiếu một trong hai phương diện đó, trong đó lực lượng sản xuất chính là nội dung vật chất, kĩ thuật, công nghệ của quá trình này, còn quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ tất yếu giữa nội dung vật chất và hình thức kinh tế của cùng một quá trình sản xuất khách quan của xã hội. Thứ hai, vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuât Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quỵết định đối với quan hệ sản xuất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện trên hai mặt thống nhất với nhau: lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất ấy và cũng do đó, khi lực lượng sản xuất có những thay đổi thì cũng tất yếu sẽ đòi hỏi phải có những thay đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất trên các phương diện sở hữu, tổ chức - quản lí và phân phổi. Sự thay đổi này có thể diễn ra với sự nhanh chậm khác nhau, mức độ khác nhau, phạm vi khác nhau... nhưng tất yéu sẽ diễn ra những thay đổi nhất định bởi vì những quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất đóng vai trò là nội dung vật chất của quá trình đó.
Thứ ba, vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượngsản xuất
Với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, quan hệ sản xuất luôn có khả năng tác động trở lại, ảnh hưởng trở lại đối vói việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất thể hiện rõ nhất trên phương diện các quan hệ tổ chức, quản lí quá trình sản xuất của xã hội. Quá trình tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra với hai khả năng: tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực. Khi mà quan hệ sản xuất phù hợp với nhu cầu khách quan của việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển của lực lượng sản xuất thì nó có tác dụng tích cực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nếu trái với nhu cẫu khách quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động tiêu cực.
Trong đời sống hiện thực kinh tế, có 3 tiêu thức cơ bản để nhận định sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất: 1) lực lượng sản xuất hiện có của xã hội cũng như của mỗi chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế có được bảo tồn - duy trì hay không; 2) lực lượng sản xuất của xã hội, của mỗi chủ thể kinh tế có được huy động tối đa (về lượng) và sử dụng có hiệu quả (về chất) hay không; 3) do đó, lực lượng sản xuất đó có được thường xuyên tái tạo và phát triển hay không. Trong thực tiễn kinh tế, các tiêu thức cơ bản này lại có thể được chi tiết hoá và có thể có những thước đo hoặc các chỉ số đánh giá cụ thể; thí dụ, có thể dùng chì số tăng trưởng kinh tế (GDP) hoặc các chỉ số khác như: GNP, HDI... để xác định theo các thời kì nhất định của mỗi quốc gia, chẳng hạn theo chu kì mỗi năm.
Thứ tư, sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - nguồn gốc, động lực cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thuộc phạm trù “mâu thuẫn” trong phép biện chứng duy vật, tức là mối quan hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu thuẫn này là đi từ sự thống nhất đến những khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt đầu nhu cầu của những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng, nhằm thực hiện sự cải biến những quan hệ sản xuất hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của quan hệ sản xuất với ỉực lượng sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Mác nhận định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lí của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất đó trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của những cuộc cách mạng” .
Sở dĩ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vì có sự khác nhau về tính chất biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất có xu hướng “động”, còn quan hệ sản xuất thì ngược lại có xu hướng “tĩnh”. Xu hướng động và tĩnh của hai phương diện lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều là khách quan. Trong điều kiện bình thường thì chỉ có trong sự ổn định tương đối của những hình thức kinh tế nhất định, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển. Nhưng chính sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất trong phạm vi ổn định của quan hệ sản xuất lại tất yếu dẫn đến khả năng ngày càng bộc lộ sự xung đột với những hình thức kinh tế hiện thời và tất yếu đòi hỏi phải có những thay đổi nhất định của quan hệ sản xuất mà lâu nay lực lượng sản xuất phát triển trong đó thì mới có thể có được sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất. Như vậy, sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi từ sự thống nhất đến xung đột và một khi xung đột đó được giải quyết thì lại tái thiết lập sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá trình vận động và phát triển của phương thức sản xuất - của nền sản xuất xã hội và sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho thấy: chỉ trong sự thống nhất, phù hợp của nhũng quan hệ sản xuất hiện thực với trình độ phát triển thực tế của các lực lượng sản xuất hiện có mới có thể tạo ra được những điều kiện thích hợp cho sự phát triển của lực lượng sản xuất; tuy nhiên, sự phù hợp giữa chúng chỉ là tương đối, tạm thời trong một giai đoạn phát triển nhất định, còn khuynh hướng vận động tuyệt đối của lực lượng sản xuất lại phá vỡ sự phù hợp đó, tạo ra khả năng tái thiết lập sự phù hợp trong giai đoạn phát triển mới.

C Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển trong cơ cấu tổng thể của đời sống xã hội 


Xét về tổng thể, đời sống xã hội là một hệ thống cơ cấu tổ chức hết sức phức tạp bao gồm trong đó những mối quan hệ chi phối lẫn nhau, từ lĩnh vực của những quan hệ kinh tế đến lĩnh vực của những quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo... Vậy, giữa chúng có mối quan hệ thế nào và sự biến đổi, phát triển của cơ cấu tổng thể ấy tuân theo quy luật cơ bản nào?
Với phương pháp tiếp cận duy vật trong nghiên cứu về xã hội, Mác đã chỉ ra mối quan hệ quyết định của lĩnh vực kinh tế đối với các lĩnh vực khác thuộc thượng tầng kiến trúc chính trị, pháp luật... của xã hội; cũng tức là nói quy luật về sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào tính chất và trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng của xã hội. Mác khẳng định: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy... hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” .
- Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
 Theo tư tưởng nói trên của Mác, có thể hiểu: trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chi toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội; còn khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cầu các quan hệ tư tưởng xã hội (chính trị, pháp quyền, tôn giáo...) cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (chính đảng, nhà nước, giáo hội...) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được tạo nên bởi các quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát triển của xã hội tương lai; trong đó, quan hệ sản xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất định. Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở hạ tầng của một xã hội phản ánh tính chất vận động, phát triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất kế thừa, phát huy và phát triển.
Như vậy, hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội đóng vai trò “kép”: một mặt, với lực lượng sản xuất, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế - xã hội cho sự duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất; mặt khác, với các quan hệ chính trị - xã hội, nó đóng vai trò là cơ sở hình thành kết cầu kinh tế, làm cơ sở hiện thực cho sự thiết lập một hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có thể được phân tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan xen và chi phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiến trúc thượng tầng của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo...) và các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng của chúng, là cơ sở hình thành hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội (như bộ máy nhà nước, tổ chức chính đảng, các tổ chức tôn giáo...).
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lí, điều khiển mọi hoạt động của xã hội và công dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia. Về bản chất, bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức giai cấp nắm giữ được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước.
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội - đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội, giữa chúng có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau. Trong đó, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện trên nhiều phương diện: tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó. Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng. Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ thống kiến trúc thượng tầng. Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội. Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội, đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước, còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào địa vị phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước. Các chính sách và pháp luật của nhà nước, suy đến cùng là sự phản ánh nhu cầu thống trị về kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội...
Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có nguyên nhân từ tính tất yếu kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính trị, pháp luật... hay lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế lại phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển các lực lượng sản xuất khách quan của xã hội.
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đỗi với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều phương thức. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức tác động của các yếu tố khác tối cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua nhân tố nhà nước mới có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tối cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu hướng, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau, Điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau: có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế độ xã hội hiện thời; lại có sự tác động theo xu hướng xoá bỏ cơ sở kinh tế này và có xu hướng đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội khác...
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế; nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng dù diễn ra với nhũng xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng cũng không thể giữ vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội; cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.
Sự phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cho thấy đây là mối quan hệ biện chứng được thực hiện theo nguyên tắc kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng; chính trị, pháp luật cũng như các mặt khác của đời sống văn hoá xã hội phụ thuộc tất yếu vào tính chất và trình độ phát triển của kinh tế, cần phải có sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng chính trị, pháp luật... với cơ sở kinh tế của xã hội. Tuy nhiên, sự phù hợp ấy chỉ là tương đối, tạm thời trong những giai đoạn lịch sử nhất định và với những điều kiện nhất định. Giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng như giữa các yếu tố trong mỗi lĩnh vực đó luôn luôn có sự vận động và do đó có khả năng làm xuất hiện nhũng mâu thuẫn. Mâu thuẫn này biểu hiện ở cuộc đấu tranh giữa các quan điểm thuộc ý thức hệ xã hội, đặc biệt là cuộc đấu tranh giữa các ý thức hệ chính trị và pháp quyền mà suy đến cùng đó chỉ là biểu hiện của mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, được thể hiện ở mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các lực lượng chính trị đại biểu cho các giai cấp khác nhau, những khuynh hướng phát triển khác nhau trong một xã hội. Việc giải quyết những mâu thuẫn ấy thường chỉ được thực hiện thông qua thực tiễn chính trị đấu tranh giai cấp trong xã hội, đó là những cuộc cải cách xã hội trên từng lĩnh vực mà đỉnh cao là những cuộc cách mạng xã hội. Thông qua những cuộc cải cách hoặc những cuộc cách mạng xã hội mà mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được khắc phục, tái tạo sự thống nhất phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.

D. Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội


- Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
Theo phương pháp tiếp cận duy vật của Mác, xã hội là tổng thể của rất nhiều mối quan hệ phức tạp nhưng có thể thực hiện sự trừu tượng hoá các quan hệ sản xuất của xã hội, tức là những quan hệ kinh tế tồn tại khách quan, tất yếu không phụ thuộc vào ý chí con người, tiến hành “giải phẫu” những quan hệ đó và đồng thời phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ phụ thuộc của nó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực và phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ với toàn bộ những quan hệ xã hội khác, tức với những quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị - xã hội. Sự phân tích đó cho thấy rõ xã hội là một hệ thống cấu trúc với ba lĩnh vực cơ bản tạo thành là: 1) toàn bộ các lực lượng sản xuất phát triển ở một trình độ nhất định; 2) quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất; 3) kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó.
Mác đã mô tả mối quan hệ kết cấu tổng thể giữa ba lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội như sau: ‘Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phụ thuộc vào một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất ra đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thẫn nói chung” .
Theo mô tả đó của Mác, có thể xác định khái niệm hình thái kinh tế-xã hội, với tư cách là một phạm trù cơ bản của hệ thống quan điểm duy vật về lịch sử, được dùng để chỉ mỗi xã hội cụ thể trong tiến trình phát triển của nó, được đặc trưng bởi một kiểu quan hệ sản xuất, phù hợp vái một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tâng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Với khái niệm về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy đã đem lại một phương pháp luận khoa học về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra những mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó và đi tới quan niệm vễ “Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” .
- Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là chỉ quá trình vận động, phát triển của xã hội tuân theo quy luật khách quan của nó dưới sự tác động của các nhân tố chủ quan trong các điều kiện lịch sử nhất định. Quá trình đó biểu hiện ở các nội dung chính sau đây: 
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan; đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các linh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học... mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng ỉẩng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Nguổn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lênin từng nhấn mạnh rằng: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” .
Hai là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội ở trình độ cao hơn trong lịch sử nhân loại, và do đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn.
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội không chỉ tuân theo quy luật khách quan mà còn chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khác; đó là các nhân tố thuộc về điều kiện địa lí, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hoá của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử... Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người nhất định có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển đó được thể hiện tiêu biểu ở các “phương thức phát triển rút gọn” hay “rút ngắn” tiến trình lịch sử của một quốc gia, dân tộc trong các điều kiện lịch sử đặc thù của nó. Chẳng hạn, có thể tiến trình phát triển của một quốc gia, dân tộc với các điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, không nhất thiết phải tuần tự phát triển qua đầy đủ các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao mà có thể “bỏ qua” một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định để tiến thẳng lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Trong tiến trình đó, xét về mặt phương thức sản xuất, cũng có thể là một sự phát triển tuần tự, nhưng cũng có thể có sự đan xen nhất định giữa các yếu tố thuộc các phương thức sản xuất khác nhau và rút gọn về mặt thời gian các giai đoạn phát triển của một phương thức sản xuất nhất định để nhanh chóng tiến tới một phương thức sản xuất cao hơn. Các quốc gia, dân tộc châu Á (kể cả Trung Quốc và Ấn Độ thời cổ đại, về căn bản chưa từng trải qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ). Hoặc trong thời kì cận - hiện đại, một số quốc gia, dân tộc vùng châu Á, chỉ trong một thời kì lịch sử mấy chục năm đã hoàn thành phương thức sản xuất công nghiệp và thị trường tư bản theo kiểu phương thức sản xuất tư bản đặc thù vùng châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc...) trong khi các nước phương Tây và Mĩ trước đây đã phải mất một thời kì lịch sử khoảng một trăm năm. Đổng thời, sau cuộc cách mạng vô sản giành chính quyền ở Việt Nam và Trung Quốc ở những thập niên giữa thế ki XX với những điều kiện lịch sử mới đã và đang tiến hành tiến trình phát triển bỏ qua giai đoạn phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách là phương thức sản xuất thống trị...
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tổ hoạt động chủ quan của con người; từ đó, cho thấy lịch sử phát triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thông nhất của nó.

Tài liệu tham khảo

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ. Mátxcơva, 1974, t.12, tr.163.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ. Mátxcơva, 1974, t.23, tr.133.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ. Mátxcơva, 1974, t.1, tr.173.

Thẻ